Tháng 4, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) so với tháng trước đã chuyển từ giảm 0,4% sang tăng 0,1%; so với cùng kỳ năm trước giảm 0,1%, mức giảm tương đương tháng trước. CPI cốt lõi so với tháng trước chuyển từ ổn định sang tăng, tăng 0,2%; so với cùng kỳ năm trước tăng 0,5%, mức tăng giữ ổn định. Chỉ số giá xuất xưởng của nhà sản xuất công nghiệp (PPI) so với tháng trước giảm 0,4%, mức giảm tương đương tháng trước; so với cùng kỳ năm trước giảm 2,7%, mức giảm mở rộng 0,2 điểm phần trăm so với tháng trước. Mặc dù các yếu tố nhập khẩu quốc tế có ảnh hưởng kéo giảm giá ở một số ngành, nhưng nền kinh tế Trung Quốc vững chắc và có khả năng phục hồi mạnh mẽ, các chính sách vĩ mô phối hợp phát huy tác dụng, phát triển chất lượng cao được đẩy mạnh vững chắc, giá cả ở một số lĩnh vực cho thấy những thay đổi tích cực.
I. CPI so với tháng trước chuyển từ giảm sang tăng, so với cùng kỳ năm trước giảm nhẹ, CPI cốt lõi tăng trưởng ổn định
Xét theo tháng: CPI chuyển từ giảm sang tăng, mức tăng cao hơn 0,2 điểm phần trăm so với mức theo mùa, chủ yếu do sự hồi phục của thực phẩm và dịch vụ đi lại. Giá thực phẩm so với tháng trước tăng 0,2%, cao hơn 1,4 điểm phần trăm so với mức theo mùa. Trong đó, do ảnh hưởng của việc giảm lượng nhập khẩu, giá thịt bò tăng 3,9%; một số khu vực bước vào mùa cấm đánh bắt hải sản, giá cá biển tăng 2,6%; nguồn cung trái cây mới vào đầu mùa giảm theo mùa, giá khoai tây và trái cây tươi lần lượt tăng 4,7% và 2,2%; giá rau tươi và thịt lợn lần lượt giảm 1,8% và 1,6%, mức giảm đều thấp hơn so với mức theo mùa. Do nhu cầu ấm lên và yếu tố kỳ nghỉ lễ, giá dịch vụ đi lại phục hồi rõ rệt. Giá vé máy bay, phí thuê phương tiện giao thông, lưu trú khách sạn và du lịch lần lượt tăng 13,5%, 7,3%, 4,5% và 3,1%, mức tăng đều cao hơn so với mức theo mùa, tổng cộng ảnh hưởng đến CPI tăng khoảng 0,10 điểm phần trăm so với tháng trước. Do biến động giá vàng quốc tế, giá đồ trang sức vàng trong nước tăng 10,1%, ảnh hưởng đến CPI tăng khoảng 0,06 điểm phần trăm so với tháng trước.
Xét theo năm: CPI giảm nhẹ, chủ yếu do ảnh hưởng của giá dầu quốc tế giảm. Giá năng lượng giảm 4,8% so với cùng kỳ năm trước, mức giảm mở rộng 2,2 điểm phần trăm so với tháng trước. Trong đó, giá xăng giảm 10,4%, ảnh hưởng đến CPI giảm khoảng 0,38 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước, là yếu tố chính thúc đẩy CPI giảm. Giá thực phẩm giảm 0,2%, mức giảm thu hẹp 1,2 điểm phần trăm so với tháng trước, ảnh hưởng đến CPI giảm khoảng 0,03 điểm phần trăm. CPI cốt lõi, loại trừ giá thực phẩm và năng lượng, tăng 0,5%, mức tăng giữ ổn định. Trong đó, giá dịch vụ tăng 0,3%, mức tăng tương đương tháng trước. Trong các dịch vụ, giá dịch vụ giúp việc gia đình, dịch vụ dưỡng lão và dịch vụ giáo dục lần lượt tăng 2,5%, 1,4% và 1,2%, mức tăng nhìn chung ổn định. Giá hàng tiêu dùng công nghiệp trừ năng lượng tăng 0,4%, ảnh hưởng đến CPI tăng khoảng 0,10 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước, trong đó giá đồ trang sức vàng tăng 35,8%, mức tăng hơi mở rộng so với tháng trước; giá quần áo, thiết bị thông tin liên lạc lần lượt tăng 1,5% và 1,0%, mức tăng cơ bản ổn định; giá ô tô chạy nhiên liệu và ô tô năng lượng mới lần lượt giảm 4,6% và 3,4%, mức giảm đều được thu hẹp.
II. PPI mức giảm so với tháng trước tương đương, giá ở một số ngành công nghiệp tiếp tục cho thấy xu hướng ổn định và cải thiện
PPI so với tháng trước giảm 0,4%, mức giảm tương đương tháng trước. Các nguyên nhân chính ảnh hưởng đến PPI giảm trong tháng này là:
Thứ nhất, yếu tố nhập khẩu quốc tế ảnh hưởng đến giá các ngành liên quan trong nước giảm. Môi trường thương mại quốc tế thay đổi, giá một số mặt hàng cơ bản quốc tế nhanh chóng giảm, ảnh hưởng đến giá các ngành liên quan trong nước giảm. Trong đó, giá dầu thô quốc tế giảm ảnh hưởng đến giá các ngành liên quan đến dầu mỏ trong nước giảm so với tháng trước, giá ngành khai thác dầu khí tự nhiên giảm 3,1%, giá sản xuất sản phẩm dầu mỏ tinh chế giảm 2,5%, giá ngành sản xuất nguyên liệu hóa chất và sản phẩm hóa chất giảm 0,6%; giá kim loại màu quốc tế như nhôm, kẽm và đồng giảm ảnh hưởng đến giá luyện nhôm, luyện kẽm và luyện đồng trong nước lần lượt giảm 2,4%, 1,6% và 0,8%. Giá ở một số ngành xuất khẩu giảm so với tháng trước, giá ngành sản xuất ô tô giảm 0,5%, ngành sản xuất máy tính, truyền thông và thiết bị điện tử khác, ngành sản xuất đồ nội thất, ngành sản xuất sản phẩm kim loại đều giảm 0,2%. Tổng cộng 10 ngành trên ảnh hưởng đến PPI giảm khoảng 0,24 điểm phần trăm so với tháng trước.
Thứ hai, một số giá năng lượng trong nước giảm theo mùa. Miền Bắc kết thúc hoàn toàn việc sưởi ấm, nhu cầu than đá bước vào mùa thấp điểm truyền thống, giá khai thác và tuyển rửa than, giá chế biến than đều giảm 3,3% so với tháng trước. Chi phí phát điện năng lượng mới thấp, vai trò thay thế mạnh mẽ, cộng với sản lượng phát điện gió tăng, giá ngành sản xuất và cung cấp điện, nhiệt giảm 0,3% so với tháng trước. Tổng cộng 3 ngành trên ảnh hưởng đến PPI giảm khoảng 0,10 điểm phần trăm so với tháng trước.
Các chính sách vĩ mô như thúc đẩy tiêu dùng của Trung Quốc tăng cường và mở rộng, các ngành công nghiệp công nghệ cao tăng trưởng nhanh chóng, nhu cầu ở một số ngành tăng, giá cả ở một số lĩnh vực cho thấy những thay đổi tích cực.
Thứ nhất, quan hệ cung cầu ở một số ngành đã được cải thiện, mức giảm giá thu hẹp. Việc thi công cơ sở hạ tầng ở các địa phương được đẩy mạnh vững chắc, các doanh nghiệp xi măng thực hiện tốt việc sản xuất theo lịch giãn cách (tránh giờ cao điểm), mức giảm giá so với cùng kỳ năm trước của ngành luyện kim và cán ép kim loại đen, ngành sản xuất sản phẩm khoáng phi kim loại lần lượt thu hẹp 1,4 và 1,0 điểm phần trăm so với tháng trước. Các chính sách thúc đẩy tiêu dùng và đổi mới thiết bị tiếp tục phát huy hiệu quả, việc giải phóng nhu cầu ở một số sản phẩm tiêu dùng và sản phẩm sản xuất thiết bị đã thúc đẩy giá các ngành liên quan phục hồi. Mức giảm giá so với cùng kỳ năm trước của máy giặt gia đình thu hẹp 0,3 điểm phần trăm so với tháng trước, ngành sản xuất thực phẩm, giá ô tô con năng lượng mới đều thu hẹp 0,2 điểm phần trăm; mức giảm giá so với cùng kỳ năm trước của thiết bị chuyên dụng cho máy điện giảm 0,7 điểm phần trăm, máy móc chuyên dụng cho nông lâm ngư nghiệp, máy móc gia công kim loại đều thu hẹp 0,2 điểm phần trăm.
Thứ hai, sự phát triển của ngành công nghệ cao thúc đẩy giá các ngành liên quan tăng. Lực lượng sản xuất chất lượng mới không ngừng được bồi dưỡng và phát triển, đổi mới công nghệ và đổi mới công nghiệp được tích hợp sâu rộng, sự phát triển của các ngành như sản xuất thông minh, sản xuất thiết bị cao cấp đã thúc đẩy giá các ngành liên quan tăng so với cùng kỳ năm trước. Giá sản xuất thiết bị thông minh có thể đeo tăng 3,0%, giá sản xuất máy bay tăng 1,3%, giá sản xuất động cơ siêu nhỏ và linh kiện tăng 1,2%, giá máy chủ tăng 1,0%, giá sản xuất tàu thuyền và thiết bị liên quan tăng 0,8%. Ngoài ra, Trung Quốc tiếp tục thúc đẩy đa dạng hóa thương mại, mở rộng thị trường thúc đẩy giá một số ngành xuất khẩu tăng hoặc mức giảm thu hẹp so với cùng kỳ năm trước. Giá chuỗi sản phẩm kiểm thử và đóng gói mạch tích hợp tăng 2,7%, giá sản xuất thiết bị chuyên dụng cho linh kiện bán dẫn tăng 1,0%; mức giảm giá so với tháng trước của ngành sản xuất máy kéo, sản xuất thiết bị điện tử, ngành may mặc lần lượt thu hẹp 1,2 điểm phần trăm, 0,7 điểm phần trăm và 0,3 điểm phần trăm.