Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Tuần 45/2022: Dự báo xu hướng thép TQ

Giá thép nhích nhẹ tuần qua nhờ thông tin tích cực từ Chính phủ trong việc hỗ trợ thị trường bất động sản, và các thông báo nới lỏng kiểm soát covid song tâm lý thị trường vẫn thận trọng và các điều kiện cơ bản thị trường yếu, nên triển vọng tiếp tục bất ổn.

Thị trường trong nước

Thép xây dựng

Cơ chế phòng ngừa và kiểm soát chung của hội đồng nhà nước Trung Quốc đã công bố khoảng 20 biện pháp để giảm bớt các biện pháp kiểm soát của Covid vào ngày 11/11.

Giá vật liệu xây dựng tuần này biến động yếu, tăng giảm đan xen. Tâm lý thị trường không ổn định, và các thương nhân đặc biệt thận trọng trước sự lên xuống của thị trường.

Vào giữa tuần, giá cả nhích nhẹ nhờ thông tin tích cực về thị trường bất động sản. Đó là Hiệp hội các nhà đầu tư định chế thị trường tài chính quốc gia (NAFMII), một nhóm liên ngân hàng tự điều chỉnh, cho biết họ sẽ mở rộng một chương trình tài trợ trái phiếu dự kiến ​​sẽ tăng cường tài chính cho các công ty tư nhân, bao gồm cả các nhà phát triển bất động sản. Ngân hàng trung ương sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai khoản vay nợ trị giá 250 tỷ nhân dân tệ (34 tỷ USD) thông qua các viện tài chính.

Tuy nhiên, tâm lý thị trường vẫn chịu áp lực từ nhu cầu thấp, và chính sách không covid của Chính phủ. Công tác phòng chống dịch đã tác động đến giao thông và nhu cầu ở nhiều nơi.

Trong khi đó, do các vấn đề về hiệu quả, hầu hết các nhà máy thép đã ngừng sản xuất và giảm sản lượng, và các thương nhân ở hạ nguồn không sẵn sàng bổ sung kho dự trữ.

Giá thép cây HRB400 tại Thượng Hải nhích khoảng 100 NDT/tấn so với tuần trước lên 3,760 NDT/tấn. Giá thép cây giao sau tháng 1 tăng lên 3,637 NDT/tấn. Tồn kho thép cây của các thương nhân và nhà sản xuất đã giảm 260,000 tấn trong tuần này, so với mức giảm 330,000 tấn tuần trước.

Jiangsu Shagang sẽ tăng giá thu mua phế liệu đối với phế liệu tan chảy nặng số 3 từ 100 NDT/tấn lên 2,810 NDT/tấn vào ngày 11/11. Nhà máy đã tăng giá phế liệu hai lần lên 200 NDT/tấn kể từ ngày 8. Những người tham gia kỳ vọng giá phế liệu cao hơn sẽ hỗ trợ giá thép cây.

Tuy nhiên, các cá nhân có hàng tồn kho cao có xu hướng giao hàng với giá thấp và giảm lượng hàng tồn kho của họ. Do nhu cầu ở hạ nguồn kém, các đại lý đang giảm giá trên thị trường giai đoạn cuối.

Tồn kho đang ở mức thấp hình thành hỗ trợ giá chạm đáy. Nhìn chung, kỳ vọng giá thị trường ngắn hạn sẽ ổn định và yếu, nên hoạt động thận trọng.

Thép công nghiệp

Cuộn cán nóng: Tuần này, thị trường cuộn cán nóng nhìn chung diễn biến ổn định và yếu, các thương nhân thận trọng. Vài nhà máy đã ngưng sản xuất bảo trì nhà xưởng. Tồn kho thép giảm và các yếu tố cơ bản về nguyên vật liệu tương đối lỏng lẻo, khả năng phục hồi của nhu cầu vẫn còn.

Tồn kho HRC do các thương nhân nắm giữ đã giảm hơn 100,000 tấn trong tuần này so với mức giảm gần 130,000 tấn vào tuần trước và dự trữ tại các nhà máy tăng hơn 60,000 tấn trong tuần này sau khi tăng 20,000 tấn vào tuần trước.

CAAM cho biết việc sản xuất và bán xe ô tô của Trung Quốc trong tháng 10 đã chậm lại so với tháng 9, ảnh hưởng đến triển vọng nhu cầu thép.

Tâm lý thị trường theo đó tiếp tục thận trọng, tình hình thương mại chậm lại. Giá cả dự kiến sẽ tiếp tục biến động phạm vi hẹp.

So với tuần trước, giá HRC Q235B giao ngay tại Thượng Hải tăng cùng mức 100 NDT/tấn lên 3,820 NDT/tấn. Giá HRC kỳ hạn tháng 1 tăng lên 3,720 NDT/tấn.

Với đợt cắt giảm giá than cốc lần thứ ba, một số nhà máy thép đã thu hẹp mức lỗ, và quá trình giảm sản lượng có thể được nới lỏng. Tuy nhiên, trong thời kỳ trái vụ, sức phục hồi của nhu cầu bị hạn chế, và những mâu thuẫn cơ bản trong ngắn hạn khó có thể tiêu tan. Dự kiến, giá thép cuộn nóng sẽ yếu và ổn định trong tuần tới.

Cuộn cán nguội: Giá cả cũng biến động phạm vi hẹp, tâm lý chủ yếu chờ đợi, lượng giao dịch nhẹ nhàng.

Dưới sự ảnh hưởng kép từ tồn kho và vốn, thị trường bi quan, vài thương nhân chấp nhận bán giá thấp hơn, và chào khối lượng nhỏ lẻ. Hạ nguồn tập trung mua đủ dung.

Đại dịch vẫn đang tác động nhất định tới tiêu thụ cuối, khiến nhu cầu thấp, giao thông hạn chế, giao dịch trầm lắng. Tồn kho CRC tại các nhà máy tuần này là 408,500 tấn, tăng 5,400 tấn so với tuần trước. Áp lực tồn kho vẫn hiện hữu.

Giá trung bình cho CRC 1.0*1250*2500 tuần này ổn định so với tuần trước ở mức 4,363 NDT/tấn.

Theo các nhà máy, sẽ có nhiều thép hơn giao tới các kho bãi trong tháng 11 dựa vào các đơn hàng trước đó và các nhà máy cũng không có kế hoạch bảo trì quy mô lớn. Nhu cầu tháng 11 có thể vẫn im ắng. Tuy nhiên, giá cả có thể nhích nhẹ lại tuần tới vì giá cả giảm mạnh gần đây và các yếu tố tiêu cực đã được giải phóng.

Tấm dày: giá cả biến động phạm vi hẹp từ 10-40 NDT/tấn. Hỗ trợ giá yếu ớt, và tâm lý thị trường theo đó biến động. Tình hình giao dịch nhìn chung cải thiện về cuối tuần nhưng triển vọng thị trường không cao. Tâm lý chung là bi quan, và nhu cầu giải phóng thấp khó hỗ trợ thị trường vững.

Tồn kho tấm dày tại các nhà máy tuần này tăng 42,300 tấn so với tuần trước lên 829,300 tấn.

Nguồn cung cho thấy số liệu tích cực, song tiêu thụ hạ nguồn yếu, và giao dịch tổng thể thấp hơn kỳ vọng.

Các yếu tố tiêu cực chồng chất đan xen, thị trường hiện đang trong giai đoạn chuyển giao sang mùa thấp điểm. Dịch bệnh bùng phát cục bộ khiến giao thông đi lại không thuận tiện, lưu thông chậm, triển vọng thị trường còn nhiều lo ngại. Dự kiến, giá thị trường thép tấm dày điều chỉnh yếu và ổn định trong tuần tới, với biên độ trong khoảng 10-40 NDT/tấn.

Mạ kẽm: Với tình hình dịch bệnh diễn biến xấu khiến giao thông tắc nghẽn, nhu cầu thấp, lợi nhuận các doanh nghiệp bị dồn nén.

Các nhà máy cơ bản đã duy trì nhịp độ sản xuất và đời sống bình thường. Tuy nhiên, do yếu tố thời tiết, kiểm soát dịch, tốc độ xây dựng hạ nguồn chậm lại, các bến thu mua theo yêu cầu, lượng giao dịch của các hộ quy mô vừa và nhỏ tiếp tục thu hẹp, một số lô hàng chỉ còn khoảng vài chục tấn.

Về triển vọng thị trường, không có nhiều biến động thời gian tới. Tâm lý chung cần thận trọng.

Thị trường xuất khẩu

Giá xuất khẩu tuần này cũng tăng nhẹ khi các nhà máy và thương nhân tăng giá trở lại theo sự tăng trưởng của giá trong nước, cũng như muốn hạn chế đà thua lỗ. Giá chào từ một nhà máy ở miền đông Trung Quốc tăng 20 USD/tấn so với tuần trước lên 555 USD/tấn fob. Nhưng việc tăng giá không thu hút được sự quan tâm đặt trước, với việc các nhà máy phía bắc Trung Quốc giữ giá xuất khẩu thép cây ở mức 530 USD/tấn fob trọng lượng lý thuyết. Thanh khoản xuất khẩu thép cây của Trung Quốc vẫn ở mức thấp với người mua kỳ vọng giá thép cây ở Châu Á sẽ có xu hướng thấp hơn.

Tương tự, giá chào cuộn cán nóng cũng tăng 10-20 USD/tấn, song chênh lệch chào mua- chào bán vẫn cao.

Một nhà máy ở miền Bắc Trung Quốc đã bán HRC SS400 ở mức 505 USD/tấn fob Trung Quốc vào đầu tuần này. Hầu hết những người mua bằng đường biển đều miễn cưỡng đặt hàng. Khoảng 200,000 tấn HRC chưa bán của Trung Quốc đã cập cảng Việt Nam gần đây và được chào giá 500-510 USD/tấn cfr Việt Nam. Nhưng những mức đó đã không thể tạo ra lực mua vì người mua trong nước kỳ vọng giá sẽ giảm thêm.

Người mua Việt Nam bày tỏ không quan tâm đến việc mua, với chào giá HRC SAE1006 Trung Quốc tăng nhẹ lên 540-550 USD/tấn cfr Việt Nam cho lô hàng tháng 1. Người mua có thể nhận hàng giao ngay với giá hoặc dưới 510 USD/tấn cfr Việt Nam từ các nhà dự trữ Việt Nam, vậy tại sao phải cân nhắc mức cao hơn cho lô hàng tháng 1, những người tham gia Việt Nam cho biết.

Quặng sắt

Giá quặng sắt đường biển đã tăng sau khi Trung Quốc công bố các biện pháp nới lỏng kiểm soát của Covid, mặc dù thương mại đã bị đình trệ. Trung Quốc đã nới lỏng các hạn chế cứng rắn của zero-Covid, ngay cả khi các vụ việc trên toàn quốc đạt mức cao nhất trong sáu tháng.

Chỉ số quặng 62%fe tăng 4.05 USD/tấn trong tuần qua lên 91.75 USD/tấn cfr Thanh Đảo.

Các giao dịch bên cảng tăng lên sau khi Trung Quốc công bố các biện pháp hạn chế Covid nới lỏng hơn. Một giám đốc nhà máy thép có trụ sở tại Hà Bắc cho biết: "Các thương nhân và nhà máy thép có nhiều yêu cầu hơn.” Một nhà giao dịch có trụ sở tại Sơn Đông cho biết: “Giao dịch tổng thể không cải thiện nhiều, vì giá thầu thấp hơn so với giá chào của chúng tôi”. "Giá tăng quá đột ngột và các nhà máy thép vẫn thận trọng vì biên lợi nhuận của các nhà máy đang ở mức thấp", một giám đốc nhà máy thép phía đông Trung Quốc cho biết.

Nhìn chung, triển vọng giá cả tiếp tục biến động theo giá thép. Các nhà máy tăng cường cắt giảm công suất cuối năm và thị trường thanh lý hàng tồn sẽ làm giảm nhu cầu quặng sắt, gây áp lực cho giá. Tuy nhiên, giá cũng được hỗ trợ từ các kích thích cuối năm và sự nới lỏng kiểm soát covid của Chính phủ. Phạm vi biến động phổ biến tầm 80-95 USD/tấn cfr Thanh Đảo.

Triển vọng thị trường thép

Với kỳ vọng lãi suất nước ngoài tăng mạnh, áp lực kinh tế trong nước sẽ tiếp tục khó cải thiện, cộng với việc kiểm soát dịch bệnh chưa chắc chắn, ... khiến tâm lý thị trường kém và giá bị kìm hãm.

Trong tháng 11, các nhà máy sẽ tăng cường bảo trì và giảm sản xuất, song tiêu thụ chậm vì bước vào mùa tiêu thụ thấp điểm với điều kiện thời tiết xấu hơn làm cản trở xây dựng sẽ làm gia tăng tồn kho và xu hướng cung cầu tương đối lỏng lẻo.

Trong khi đó, dịch bệnh đang lan rộng. Chính phủ nước này vẫn kiên quyết với chính sách không covid và sẽ còn đóng cửa các khu vực để tránh lan rộng, hạn chế giao thông và kìm hãm nhu cầu thép.

Với tình hình hiện tại, các nhà máy thép chỉ có hai lựa chọn bị động là giảm giá; hoặc giảm sản lượng và giữ giá.

Nhìn chung, với gia tăng của áp lực tích lũy và chi phí nguyên liệu thô giảm, giá thép trong tháng 11 có thể chịu nhiều áp lực và đi xuống trước khi có thể phục hồi nhẹ và diễn biến ổn định hơn vào tháng 12, sau quá trình cắt giảm sản xuất mở rộng trong tháng 11.

Phạm vi giá giao ngay trong nước dự kiến dao động từ 3,550-3,750 NDT/tấn cho thép cây và HRC.

Chào giá xuất khẩu HRC SAE1006 Trung Quốc về Việt Nam dao động 530-550 USD/tấn cfr Việt Nam.

Thép dài còn gọi là thép xây dựng (sử dụng trong ngành xây dựng) như thép hình, thép thanh và thép cây.

Thép dẹt được sử dụng trong ngành công nghiệp nặng như đóng tàu, sản xuất ô tô, sản xuất các máy móc thiết bị công nghiệp, bao gồm các loại thép tấm, lá, cán nóng và cán nguội.

Lưu ý:  Dự báo trên chỉ mang tính tham khảo. Quý khách hàng nên tham khảo thêm nhiều nguồn tin khi quyết định mua bán.