Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 10/11/2021

 

Giá thép châu Á tiếp tục giảm thêm

Giá thép xuất khẩu của Trung Quốc hôm thứ Ba đã tiếp tục giảm, dẫn đầu là cuộn trơn giảm 16 usd/tấn khi các nhà máy cắt giảm giá chào hàng để bắt kịp đà giảm giá trong nước.

Đã có dấu hiệu sụt giảm doanh số bán hàng tại thị trường nội địa Trung Quốc do các thương nhân tìm cách từ bỏ vị thế vì nhu cầu thép dự kiến sẽ không cải thiện trong mùa đông và sự hỗ trợ từ chi phí nguyên liệu thô tiếp tục bị xói mòn. Các nhà máy cũng đang tích cực tìm kiếm doanh số xuất khẩu để giải quyết nguồn cung ngày càng tăng.

Các nhà máy ở tỉnh Sơn Tây, miền bắc Trung Quốc đã yêu cầu các nhà cung cấp giảm giá than cốc  200 ndt/tấn (31 usd/tấn) để giảm bớt sức ép lên biên lợi nhuận thép của họ. Giá thép có thể theo xu hướng giá nguyên liệu yếu kém do thiếu vắng nhu cầu là động lực chính vào cuối năm khi các công ty thương mại tích trữ hàng tồn kho trước khi mua xây dựng khởi động lại vào tháng 3. Các biện pháp kiểm soát ô nhiễm xung quanh Thế vận hội Mùa đông Bắc Kinh vào tháng Hai sẽ bổ sung vào các giới hạn ô nhiễm mùa đông vốn đã nghiêm ngặt đối với các nhà máy.

Các nhà máy lớn nhất của Trung Quốc đã cắt giảm sản lượng vào cuối tháng 10 xuống mức thấp nhất kể từ đầu năm 2018.

Cuộn trơn & phôi thép

Giá xuất khẩu cuộn trơn của Trung Quốc giảm 16 usd/tấn xuống còn 782 usd/tấn fob. Một nhà máy ở phía bắc Trung Quốc đã cắt giảm giá xuất khẩu thép cuộn trơn 40 usd/tấn xuống còn 795 usd/tấn fob. Một số nhà máy ở Đường Sơn đã giảm giá xuất xưởng thép cuộn trơn xuống 4.900 ndt/tấn, tương đương 770 usd/tấn, duy trì tâm lý bi quan đối với nhu cầu trong nước trong tháng 12 và tháng 1. "Nhưng vẫn khó nhận được đơn đặt hàng sau khi giá giảm", nhà máy ở phía bắc Trung Quốc cho biết. Một nhà máy khác ở phía đông Trung Quốc vẫn giữ giá thép cuộn trơn cacbon cao ở mức 870 usd/tấn fob.

Giá phôi thép xuất xưởng tại Đường Sơn giảm 150 ndt/tấn xuống 4.450 ndt/tấn.

Thép cuộn

Giá thép cuộn cán nóng (HRC) tại Thượng Hải giảm 50 ndt/tấn xuống 4.900 ndt/tấn xuất kho do giao dịch chậm. HRC kỳ hạn tháng 1 giảm 1,14% xuống 4.502 ndt/tấn. Tâm lý tiêu cực tràn sang các thị trường phía đông Trung Quốc từ mức giảm 240 ndt/tấn đối với thép dải cán nóng ở Đường Sơn hôm thứ Ba. Một nhà sản xuất ống lớn ở Thiên Tân cho biết họ không thể nhận được hợp đồng đặt trước từ các nhà cung cấp từ ngày 9 tháng 11 do nhu cầu ống hàn quá yếu kém nên áp lực dự trữ lớn. "Các nhà máy đã bắt đầu tích cực tìm kiếm đơn đặt hàng trong bối cảnh doanh số bán ra yếu," một thương nhân ở phía đông Trung Quốc cho biết.

Định giá HRC FOB Trung Quốc giảm 8 usd/tấn xuống 790 usd/tấn. Một lượng nhỏ HRC SS400 của Trung Quốc được bán với giá 790 usd/tấn fob Trung Quốc trong tuần này, cho lô hàng tháng 1. Các giao dịch khác với 800-10.000 tấn HRC SS400 của Trung Quốc đã được bán dưới 810 usd/tấn cfr Việt Nam trong tuần này, tưng đương khoảng 775-780 usd/tấn fob Trung Quốc. Nhưng tất cả các giao dịch đó đã được các thương nhân bán cho lô hàng tháng 2. Những thương nhân này kỳ vọng giá xuất khẩu và nội địa Trung Quốc sẽ tiếp tục giảm trong bối cảnh nhu cầu chậm lại và giá xuất khẩu mà họ đưa ra sẽ vẫn có lãi so với giá bán nội địa của Trung Quốc thấp hơn.

Định giá HRC Đông Nam Á giảm 9 usd/tấn xuống còn 846 usd/tấn do chào giá thép cuộn Trung Quốc thấp hơn. Các thương nhân cắt giảm giá chào hàng xuống còn 810 usd/tấn cfr Việt Nam cho lô hàng từ tháng 1 và tháng 2 của cuộn SAE1006 Trung Quốc từ 820 usd/tấn cfr Việt Nam, thấp hơn so với chào giá của các nhà máy Trung Quốc ở mức 840-850 usd/tấn cfr Việt Nam. Nhưng họ không chào mua vì người mua Việt Nam đang chờ đợi các chào bán hàng tháng mới của nhà máy trong nước Hòa Phát dự kiến được công bố trong tuần này.Chào bán không đổi ở mức 890 usd/tấn cfr tại Việt Nam cho SAE1006 của Nhật Bản. Một nhà máy ở Kazakhstan đã chào bán giá 840 usd/tấn cfr Việt Nam.

Thép cây

Giá thép cây tại Thượng Hải tăng 20 ndt/tấn lên 4.920 ndt/tấn vào buổi sáng, nhưng giá lại giảm xuống 4.900 ndt/tấn vào buổi chiều do giao dịch chậm chạp. Giá thép cây giao  tháng 1 giảm 0,68%bxuống 4,257 ndt/tấn. Giao dịch trên thị trường mua bán thực tế cũng chậm lại so với ngày thứ Hai do những người tham gia thị trường lo ngại rằng nhu cầu thép xây dựng giảm sẽ vượt xa việc các nhà máy cắt giảm nguồn cung. Giao dịch thép cây ở các thành phố lớn đã giảm 50.000 tấn xuống còn 130.000 tấn hôm thứ Ba so với thứ Hai. Mười nhà máy Trung Quốc đã giảm giá xuất xưởng thép cây 50-80ndt/tấn hôm nay.

Chỉ số thép cây fob Trung Quốc giảm 4 usd/tấn xuống còn 782 usd/tấn fob trọng lượng lý thuyết với việc các nhà máy cắt giảm giá chào xuất khẩu để phù hợp với mặt bằng giá thị trường trong nước. Một nhà máy ở phía bắc Trung Quốc đã cắt giảm chào giá xuất khẩu thép cây và mức khả thi xuống còn 780 usd/tấn fob trọng lượng lý thuyết sau khi giá thị trường nội địa giảm xuống còn 720-730 usd/tấn trọng lượng lý thuyết. Các nhà sản xuất ở miền đông Trung Quốc vẫn im lặng trong việc báo giá xuất khẩu với giá thị trường nội địa cao hơn 40-45 usd/tấn so với giá ở miền bắcTrung Quốc.

Than cốc Châu Á mở rộng đà suy yếu

Giá ở Trung Quốc giảm mạnh do một chào bán than của Mỹ được hạ xuống để thu hút sự quan tâm mua, nhưng những người tham gia thị trường Trung Quốc vẫn đứng ngoài cuộc. Giá loại một bán sang Trung Quốc giảm 23,35 usd/tấn xuống còn 570 usd/tấn cfr, trong khi giá loại 2 giảm 7,50 usd/tấn xuống còn 512,50 usd/tấn cfr ở phía bắc Trung Quốc.

Một lô hàng Panamax than Rustic Ridge của Mỹ bốc dỡ từ cuối tháng 11 đến đầu tháng 12 đã được chào bán trên thị trường Trung Quốc ở mức 550 usd/tấn cfr, giảm 20 usd/tấn so với mức 570 usd/tấn một ngày trước đó, một số người tham gia thị trường cho biết.

Nhu cầu đối với than luyện cốc suy yếu, với những người tham gia Trung Quốc kỳ vọng giá cả trong nước và đường biển sẽ tiếp tục giảm khi tâm lý giảm giá gia tăng. Một thương nhân Trung Quốc cho biết: “Với việc cắt giảm sản lượng nghiêm ngặt đang diễn ra, đặc biệt là đối với các nhà máy phía Bắc, lượng tồn kho có thể được duy trì trong thời gian dài hơn, do đó nhu cầu về nguyên liệu thô sẽ tiếp tục suy yếu.

Một nhà sản xuất thép khác ở miền bắc Trung Quốc cũng bày tỏ quan điểm tương tự, cho thấy không có hứng thú đối với than đường biển do lượng than Australia trước lệnh cấm đã làm tăng mức tồn kho, khiến họ không có nhu cầu gì trong ba tháng tới.

Tại Trung Quốc, giá các loại than cốc khác nhau ở khu vực Sơn Tây giảm do tình trạng thắt chặt nguồn cung trên thị trường nội địa giảm bớt. Than cốc Liulin số 4 với lưu huỳnh 0,8% giảm 450 ndt/tấn (70,39 usd/tấn) xuống 3.600 ndt/tấn, và than cốc loại 1 có hàm lượng lưu huỳnh thấp ở Anze, Sơn Tây giảm 250 ndt/tấn xuống 3.650 ndt/tấn.

Một cuộc đấu thầu bán hai 22.000 tấn than K10 của Nga bốc dỡ trong tuần này đã được đưa ra tại thị trường Trung Quốc hôm thứ Ba. "Giá than nhiệt đã giảm đáng kể và giá than gầy hàm lượng lưu huỳnh cao trong nước cũng vậy. Tuy nhiên, than có hàm lượng lưu huỳnh thấp không giảm cùng tốc độ nên vẫn có một số nhu cầu về than K10 dùng để phối trộn, do mức lưu huỳnh thấp khoảng 0,2%,” một thương nhân Trung Quốc cho biết. "Nhưng ngay cả như vậy, chúng tôi có thể mong đợi một xu hướng giá tiếp tục giảm trong thị trường giảm giá này", ông nói thêm.

Trong khi đó, một số nhà máy thép ở khu vực Sơn Tây hôm nay đề xuất một đợt giảm giá khác là 200 ndt/tấn đối với than cốc. Mức này dự kiến sẽ được các nhà sản xuất than cốc chấp nhận vào ngày 11 tháng 11.

Định giá than cốc premium hard coking coal Australia đã giảm 45 cent/tấn xuống 403,15 usd/tấn fob, trong khi giá tier-two mid-volatile không đổi ở mức 339 usd/tấn fob Australia.

Hoạt động giao dịch trên thị trường fob bị ngưng trệ do lượng hàng chào bán khan hiếm. “Các nhà sản xuất thép đang theo dõi xem điều gì sẽ xảy ra tiếp theo vì không ai muốn trả mức giá trên 400 usd/tấn fob trong một thị trường trầm lắng như vậy,” một nhà sản xuất Australia cho biết. Có vẻ như không ai vội mua và cũng không có lo ngại về nguồn cung. Tuy nhiên, người mua cũng không thể trì hoan4 quá lâu nếu thực sự có nhu cầu nên bên nào cũng phải ra tay trước.

Giá than cốc premium hard coking coal  sang Ấn Độ giảm 1,85 usd/tấn xuống 424,15 usd/tấn cfr, trong khi giá loại hai cũng giảm 2 usd/tấn xuống 360 usd/tấn cfr bờ đông Ấn Độ.

Giá phế châu Á giảm do nhu cầu yếu kém

Giá nhập khẩu phế đóng container của Đài Loan hôm thứ Ba đã giảm 5 usd/tấn do nhu cầu nguyên liệu giảm khiến người bán không có nhiều lựa chọn ngoài việc chấp nhận giá thầu mua thấp hơn.

Định giá ngày HMS 1/2 80:20 đóng containe cfr  Đài Loan đã giảm 5 usd/tấn xuống còn 465 usd/tấn vào ngày 9 tháng 11. Giá nhập khẩu của Đài Loan đã giảm 15 usd/tấn từ 480 usd/tấn cfr kể từ đầu tháng 11.

Một số giao dịch giao ngay đã được thực hiện ở mức 465 usd/tấn cfr hôm thứ Ba khi người mua tiếp tục điều chỉnh giá thầu mua thấp hơn trong bối cảnh nhu cầu yếu hơn và các nhà cung cấp chuyển sang bán trước khi thị trường có thể giảm xuống. Các giá thầu mua tiếp theo bị hạn chế do các nhà máy dự đoán rằng giá sẽ giảm hơn nữa trong tuần này.

"Giá đang trong xu hướng giảm và tôi dự đoán giá [phế] sẽ còn giảm thấp hơn nữa vào thứ Tư. Không có yếu tố kích thích nào để giá tăng ngay bây giờ, vì vậy chúng tôi sẽ chờ đợi. Có lẽ 460 usd/tấn sẽ là một điểm tốt cho chúng tôi," một nhà máy đề xuất.

Một người mua khác đồng ý rằng giá phế HMS 1/2 80:20 của Đài Loan có khả năng sẽ giảm trong tuần này do doanh số bán thép thành phẩm mờ nhạt. Các nhà máy trong nước cho biết đợt điều chỉnh giảm giá thép cây và phế mới nhất của công ty định chuẩn giá nội địa Đài Loan, Feng Hsin Steel, là sự phản ánh chính xác tình hình thị trường hiện tại. Nhưng một số người bán tiếp tục duy trì triển vọng tích cực và chọn giữ lại hàng hóa dựa vào các chỉ báo tăng giá thị trường.

Một người bán cho biết: "Tháng 11 thường là lúc giá phế tăng do các yếu tố thời vụ. Tôi nghe nói rằng nhu cầu nội địa ở Mỹ hiện cũng rất cao, vì vậy tôi chắc chắn giá sẽ sớm tăng," một người bán cho biết.

Một thương nhân nói thêm rằng các nhà máy hiện thường tích trữ hàng phế tồn kho ở Mỹ trước sự gián đoạn thu gom do thời tiết vào mùa đông, điều này có thể hạn chế khối lượng xuất khẩu trong tháng tới. Các chào bán từ Mỹ đối với HMS 1/2 80:20 đóng trong container bị hạn chế nhưng thứ Ba đã được nghe trong khoảng 465-470 usd/tấn cfr.

Nhật Bản, Việt Nam và Hàn Quốc

Hôm thứ Ba có rất ít chào bán giao ngay của Nhật Bản về phế xuất khẩu, vì hầu hết người bán đang háo hức chờ đợi kết quả của cuộc đấu thầu Kanto vào thứ Tư. Một số người tham gia thị trường dự đoán kết quả đấu thầu sẽ giảm 1.500 yên/tấn (13,27 usd) so với tháng trước xuống còn khoảng 51.500-52.000 yên/tấn, nhưng các nhà giao dịch cho biết khối lượng có sẵn ở mức chào bán thấp như vậy sẽ bị hạn chế, do giá H2 trong nước ở Nhật Bản vẫn ở mức thấp nhất là 54.000 yên/tấn. Thị trường chỉ có khả năng điều chỉnh giảm giá đáng kể nếu nhiều nhà máy trong nước bắt đầu cắt giảm giá thu mua phế.

Những người mua ở nước ngoài đã không tích cực thu mua phế xuất khẩu của Nhật Bản trong vài tuần qua, ngoại trừ giá thầu mua từ các nhà sản xuất thép Hàn Quốc cho H2 ở mức 51.500-52.500 yên/tấn fob vào tuần trước.

Lợi nhuận của các nhà máy lò điện hồ quang Việt Nam đang ở mức hòa vốn trong bối cảnh doanh số bán thép trì trệ do thị trường thép Trung Quốc giảm mạnh.

"Hiện không thể xuất khẩu phôi sang Trung Quốc. Giá phôi trong nước của họ chỉ khoảng 643 usd/tấn cfr và điều đó là không khả thi đối với chúng tôi," một nhà máy Việt Nam cho biết. 

Chênh lệch phôi - phế  hiện ở mức dưới 100 usd/tấn khi tính theo giá phôi nội địa của Trung Quốc và giá chào H2 mới nhất của Nhật Bản ở mức 520 usd/tấn. Hầu hết người mua Việt Nam cho biết họ kỳ vọng giá phế sẽ giảm hơn nữa.

Giá xuất khẩu và nội địa thép cây Thổ Nhĩ Kỳ giảm nhẹ

Các nhà sản xuất thép cây của Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm giá chào bán cho cả thị trường trong nước và thị trường nước ngoài trong bối cảnh nhu cầu từ người mua yếu hơn.

Hai nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cho biết họ có thể bán ở mức 735 usd/tấn fob, dựa trên tình hình thị trường yếu hơn ở các khu vực toàn cầu, bao gồm cả Trung Đông.

Định giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ giảm 2,50 usd/tấn xuống còn 732,50 usd/tấn fob theo trọng lượng thực tế hôm thứ Ba.

Ba nhà máy ở Istanbul đã giảm giá chào bán chính thức 2 usd/tấn xuống còn 748 usd/tấn xuất xưởng chưa bao gồm VAT hôm thứ Ba, đã tăng giá chào chính thức từ 745 usd/tấn xuất xưởng chưa bao gồm VAT lên 750 usd/tấn xuất xưởng chưa bao gồm VAT hôm thứ Hai sau khi bán vào cuối tuần trước tại mức khoảng 745 usd/tấn xuất xưởng. Việc tăng giá hôm thứ Hai không có tác dụng và nhu cầu yếu đã đẩy các nhà máy giảm giá chào bán trong ngày thứ Ba. 

Một nhà máy Izmir được cho là đã tìm thấy một số nhu cầu ở mức 740 usd/tấn xuất xưởng chưa bao gồm VAT hôm thứ Ba, đã bán được hơn 15.000 tấn vào ngày 5 tháng 11. Họ đã tăng giá chào hàng lên 750 usd/tấn xuất xưởng chưa bao gồm VAT vào thứ Ba, nhưng mức đó cao hơn hơn bất kỳ mức nào ở Istanbul và các nhà tích trữ cho rằng nó không khả thi.

Giá phế Thổ Nhĩ Kỳ giảm sau một thỏa thuận vật liệu xuất xứ từ Nga được chốt

Giá nhập khẩu phế của Thổ Nhĩ Kỳ giảm nhẹ hôm thứ Ba khi một lô hàng Nga bán đến Marmara cho tháng 12 được chốt hôm thứ Ba.

Định giá ngày phế HMS 1/2 80:20 cfr Thổ Nhĩ Kỳ giảm 2,30 usd/tấn xuống 497 usd/tấn cfr.

Một nhà cung cấp ở St.Petersburg đã bán 20.000 tấn HMS 1/2 80:20 ở mức 497 usd/tấn và 10.000 tấn bonus ở mức 517 usd/tấn cfr Marmara giao tháng 12.

Các nhà sản xuất thép Thổ Nhĩ Kỳ phải mua các lô phế biển sâu trong nửa cuối tuần này có thể sẽ phải trả ở mức gần 495 usd/tấn cfr cho premium HMS 1/2 80:20 do các nhà xuất khẩu phế không thể đẩy giá thu mua tại bến xuống và vì khối lượng thu mua của các nhà máy thép ở thị trường nội địa Mỹ và châu Âu.

Tại Mỹ, phế vụn được cho là sẽ vẫn có nguồn cung hạn chế trong thời gian còn lại của năm. Chỉ mới 10 ngày trước, những người thu mua phế  của Thổ Nhĩ Kỳ đã cố gắng nhưng không thành công trong việc đẩy giá nhập khẩu phế xuống, do đó, dự kiến sẽ có ít thay đổi về giá cho đến giữa tháng này. Các nhà máy chắc chắn sẽ cố gắng nhắm mục tiêu giá thấp hơn một chút dựa trên nhu cầu thép yếu hơn đã được chỉ ra trong hai tuần qua.

Giá thép cây và phôi của Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm nhẹ trong tháng 11 do nhu cầu yếu hơn, và nếu áp lực giảm tiếp tục đến từ thị trường thép trong nửa cuối tháng 11, nhiều người tham gia thị trường kỳ vọng rằng giá phế liệu sẽ bắt đầu giảm dần nếu các yếu tố cơ bản về nguồn cung phế không giảm. Nguồn cung phế vào cuối năm sẽ phụ thuộc vào điều kiện thời tiết.

Tổng cộng có 25 chuyến hàng biển sâu đã được giao dịch cho hgàn giao tháng 12 tới Thổ Nhĩ Kỳ. 

Định giá ngày của HMS 1/2 80:20 cif Thổ Nhĩ Kỳ (biển ngắn) không đổi ở mức 472,50 usd/tấn hôm thứ Ba.

HRC EU: Thảm họa ô tô vẫn tiếp diễn

Giá thép cuộn cán nóng (HRC) của châu Âu hôm thứ Ba vẫn chịu áp lực do lập trường có vẻ vững chắc của các nhà máy đối với sản lượng quý đầu tiên được bù trừ bởi doanh số bán hàng rẻ hơn trong tháng 12 và tháng 1.

Định giá ngày HRC Italy giảm 4,25 euro/tấn xuống còn 893 euro/tấn, trong khi chỉ số ngày ở tây bắc EU giảm 1,25 euro/tấn xuống 986,25 euro/tấn xuất xưởng.

Các nhà sản xuất vẫn đang cố gắng tìm đểm đến cho khối lượng tháng 12 và đang giảm giá đáng kể giá chào bán so với giá chào quý đầu tiên. Một nhà máy lớn ở Bắc Âu đã chào bán vào Thổ Nhĩ Kỳ vào tuần trước ở mức 760 euro/tấn cfr để cố gắng loại bỏ khối lượng dư thừa.

Những người tham gia đang chờ đợi các thỏa thuận đàm phán hợp đồng ô tô, mà họ hy vọng sẽ cung cấp sự rõ ràng hơn và hướng đi trong tương lai. Nhưng hiện tại, xu hướng của thị trường chủ yếu được thiết lập bởi vật liệu ô tô dư thừa.

Tại Italy, các nhà sản xuất ống thép có khả năng tiếp cận với mức giá thấp nhất là 850 euro/tấn xuất xưởng, trong khi giá thép tấm mỏng giảm không tạo ra nhiều lý do để các trung tâm dịch vụ mua thép cuộn. Tại Đức, các trung tâm dịch vụ tập trung vào ô tô đang cạnh tranh trong phân khúc công nghiệp nói chung khi họ tìm cách di chuyển nguyên liệu chế biến thừa.

Có rất nhiều cuộc thảo luận trên thị trường về việc giá cả sẽ tăng khi lượng phân bổ trong tháng 12 được bán hết, do chi phí năng lượng cao hơn và tâm lý vững chắc hơn, được củng cố bởi thỏa thuận thương mại thép EU-Mỹ, cũng như các chương trình đầu tư của EU cho năm tới.

Không có nhiều chào bán nhập khẩu trong tuần này, đặc biệt là vì nguyên liệu trong nước được chào giá thấp hơn và thời gian giao hàng nhanh hơn. Một số nhà máy hiện đang kết thúc đợt bán hàng của tháng 1, do không bán được gì đến Italy. Ấn Độ nghe nói chào bán trên thị trường với giá 840 euro/tấn cfr, nhưng rủi ro về thuế tự vệ có nghĩa là nó không khả thi. 

Một nhà máy lớn ở Bắc Âu đã chốt các hợp đồng nửa năm ở mức cao với các nhà sản xuất xe hạng nặng hạng trung, chốt vài nghìn tấn ở mức 1.075 euro/tấn vào tuần trước. Điều này sẽ đóng vai trò như một điểm đánh dấu cho khối lượng thép ô tô đang diễn ra. Nhưng đồng thời, họ vẫn đang cố gắng tìm kiếm các đầu ra cho thép cuộn trước đây dành cho chuỗi cung ứng ô tô.

Các nhà máy ở các vị thế khác nhau trong thị trường HRC CIS

Một số nhà sản xuất thép cuộn cán nóng (HRC) của CIS đang hưởng lợi từ thị trường nội địa tương đối mạnh, vốn đang hạn chế phân bổ xuất khẩu của họ, trong khi những người bán đó cần cạnh tranh ở các thị trường nước ngoài truyền thống, chẳng hạn như Thổ Nhĩ Kỳ hoặc Bắc Phi, đang giảm giá chào bán của họ.

Nhu cầu ổn định tại thị trường Nga đã cắt giảm sự ảnh hưởng việc giá Trung Quốc giảm của các nhà máy, đang gây sức ép đến tâm lý ở Việt Nam. Giá từ các nhà cung cấp cạnh tranh trong khu vực, chẳng hạn như Ấn Độ, đã giảm trong vài tuần qua, trước áp lực từ việc Trung Quốc giảm giá.

Tại khu vực Biển Đen, sự xuất hiện trở lại của các mặt hàng xuất khẩu của Trung Quốc đã làm giảm sút tâm lý khi các thương nhân chào bán và có khả năng bán - mặc dù khả năng bán được chưa được xác nhận - ở mức 840-870 euro/tấn cfr.

Một nhà máy CIS được cho là đã chào bán cho Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 860-880 usd/tấn cfr, trong khi người bán Thổ Nhĩ Kỳ chào giá 900-930 usd/tấn xuất xưởng. Một số mức khả thi ước tính ở mức 870 usd/tấn xuất xưởng, trong khi một số người mua dự kiến rằng một nhà máy chào bán ở mức 930-940 usd/tấn xuất xưởng cho tháng 2 sẽ đồng ý mức 920 usd/tấn xuất xưởng. Không chắc rằng người mua Thổ Nhĩ Kỳ sẽ sẵn sàng trả trên 860 usd/tấn cfr cho nguyên liệu CIS ngay lúc này.

Brazil được cho là đã bán hai lô với tổng khối lượng 50.000-55.000 tấn cho Thổ Nhĩ Kỳ với giá 890-895 usd/tấn cfr vào tuần trước, trong khi một nhà máy ở Bắc Âu chào bán với giá tương đương 880 usd/tấn cfr. 

Định giá ngày của HRC CIS  giảm 20 usd/tấn xuống còn 830 usd/tấn fob Biển Đen.

Triển vọng thị trường phôi billet CIS vẫn không rõ ràng

Sự không chắc chắn tiếp tục phổ biến trên thị trường phôi billet. Trong khi giá ở châu Á vẫn trên xu hướng giảm, nguồn cung eo hẹp từ Biển Đen đã khuyến khích các nhà cung cấp duy trì giá chào bán.

Định giá này phôi billet Biển Đen không đổi ở mức 625 usd/tấn fob hôm thứ Ba và giá phôi tuần  ở Thổ Nhĩ Kỳ cũng không thay đổi ở mức 705 usd/tấn xuất xưởng.

Giá phôi billet Đường Sơn giảm xuống 4.450 ndt/tấn xuất xưởng, tương đương 609 usd/tấn, chưa bao gồm VAT, thúc đẩy các công ty thương mại tiếp tục chuyển hướng khối lượng có xuất xứ khác nhau, bao gồm Ấn Độ, UAE và Brazil, sang các thị trường thay thế. Trong khi một số công ty này chỉ ra mức khoảng 660 usd/tấn cfr Thổ Nhĩ Kỳ, những công ty khác đã được nghe chào giá mua cho các lô hàng chuyển vị trí. Mặc dù một số đặt trước đã được nghe ở mức này vào tuần trước, nhưng nhiều người mua vẫn chưa sẵn sàng chấp nhận rủi ro, vì kỳ vọng về hướng giá tiếp theo ở Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ vẫn chưa rõ ràng. Một hà cán lại đã lên chương trình bảo trì theo lịch trình  trong khoảng hai tuần vào giữa tháng 12.

Sau khi bán được 10.000 tấn phôi billet, một nhà sản xuất Ukraina đã đặt một lô hàng khác với giá 670 usd/tấn cfr Thổ Nhĩ Kỳ vào tuần trước, có thể là ở khu vực Iskenderun. Một số người tham gia thị trường đề xuất rằng mức này cao hơn, vì nó dành cho loại chất lượng cao hơn và khối lượng nhỏ hơn, nhưng hầu hết khách hàng sẽ không chấp nhận mức này hiện nay.

Mặc dù thiếu cơ hội bán khối lượng lớn vào Trung Quốc, nhưng chào hàng khan hiếm từ các nhà sản xuất phôi thép hàng đầu Biển Đen vẫn ở mức 640-650 usd/tấn fob trong tuần này, trong khi một số nhà cung cấp của Nga quyết định nối lại bán các lô hàng của tháng 1, khi sự cạnh tranh giảm. Một nhà cung cấp của Ukraina gần như đã bán hết cho các lô hàng trong tháng 1, nhưng có khả năng sẽ phân bổ số lượng phôi thép cuộn trơn hạn chế trong trường hợp có giá thầu mua hấp dẫn. Chỉ số giá cho SAE là khoảng 685 usd/tấn fob Biển Đen. Trong khi đó, các công ty thương mại đã báo giá phôi lô hàng tháng 12 có xuất xứ CIS ở mức 640-650 usd/tấn fob.

Tại Thổ Nhĩ Kỳ, chào hàng trong nước ở mức 715-720 usd/tấn xuất xưởng cho các lô hàng cuối tháng 11-12 ở Izmir, với mức 710 usd/tấn xuất xưởng được cho là có thể đạt được. Mức độ khả thi ở các khu vực khác được báo cáo là 700 usd/tấn xuất xưởng, không bao gồm VAT. Bất chấp nhu cầu giảm, người bán vẫn miễn cưỡng giảm giá do giá phế cao. 

Nhiều khách hàng ở các thị trường khác đã do dự trong việc tiếp tục mua hàng. Có một khoảng cách lớn giữa kỳ vọng của người bán và người mua, một thương nhân cho biết.

Giá HRC Mỹ giảm xuống mức thấp nhất từ tháng 7

Giá thép cuộn cán nóng (HRC) của Mỹ giảm trong tuần này do doanh số và chào bán thấp hơn, trong bối cảnh thị trường giao ngay tiếp tục hoạt động hạn chế.

Định giá tuần của HRC Midwest nội địa Mỹ giảm 70 usd/tấn ngắn (st) xuống còn 1.840 usd/st, lần đầu tiên xuống dưới 1.900 usd/tấn kể từ ngày 10/8 và là mức thấp nhất kể từ ngày 20/7. Định giá HRC miền nam giảm 55 usd/st xuống còn 1.840 usd/st.

Doanh số bán giá 1.800 usd/st cho tháng 12 đã được báo cáo cũng như các chào giá thấp tới 1.725 usd/tháng ở Midwest. Nhiều chào giá nằm trong khoảng 1.800 usd/st.

Thời gian giao hàng ở Midwest mở rộng lên 4-7 tuần từ 4-6 tuần.

Những người mua tại trung tâm dịch vụ cho biết mức độ yêu cầu thấp hơn, một dấu hiệu giảm giá trong những tuần chuẩn bị bước vào kỳ nghỉ Lễ Tạ ơn, thường đánh dấu sự bắt đầu của thời kỳ giảm tốc theo mùa.

Nhiều người tiêu dùng đang dùng phương cách chờ đợi và quan sát thị trường thép, với việc tiếp tục mua theo hợp đồng nhưng chỉ để đáp ứng nhu cầu trước mắt. Một số cho biết chỉ mua tối thiểu theo yêu cầu của hợp đồng.

Một trung tâm dịch vụ báo cáo rằng một nhà sản xuất thép sẵn sàng đàm phán một thỏa thuận HRC kéo dài một năm với giá thấp hơn 2.000st/tháng trong năm 2022 với giá hơn 1.200 usd/st một tháng một chút, một mức chênh lệch giảm đáng kể so với giá giao ngay hiện tại.

Giá HRC nhập khẩu vào Houston giảm xuống còn 1.400 usd/st ddp từ 1.430 usd/st do chào hàng nước ngoài thấp hơn.

Bất chấp việc Mỹ dỡ bỏ mức thuế 25% Mục 232 đối với thép của EU vào Mỹ, rất ít người trên thị trường tin rằng châu Âu sẽ gia tăng dòng chảy thép vào Mỹ.

Chênh lệch giữa giá phế busheling số 1 đã giao cho các nhà máy Midwest  Hoa Kỳ và giá bán HRC giảm 5,6% xuống 1.320 usd/st từ 1.399 usd/st trong tuần trước, mọt sự kết hợp giữa giá HRC giảm và giá bán busheling tăng 20 usd/gt trong giao dịch tháng 11. Mức chênh lệch gần gấp ba lần so với mức 447 sd/st từ một năm trước.

Ít nhất một trung tâm dịch vụ dự kiến giá phế tiếp tục tăng trong giao dịch tháng 12 và họ kỳ vọng điều đó sẽ khiến các nhà sản xuất thép lò điện hồ quang (EAF) phòng thủ trước việc giảm giá thép thành phẩm.

Định giá tuần cho thép cuộn cán nguội (CRC) nội địa Mỹ  tăng nhẹ 5 usd/st lên 2.160 usd/st trong khi định giá thép mạ kẽm nhúng nóng (HDG) tăng 15 usd/st lên 2.175 usd/st. Các nhà máy thép đã thành công hơn trong việc bảo vệ giá cao hơn đối với các sản phẩm CRC và HDG vì nguồn cung có sẵn thường thấp hơn, làm tăng mức chênh lệch với HRC lần lượt lên 320 usd/st và 335 usd/st. Thị trường nhìn chung định giá HRC theo chênh lệch giá trị gia tăng ở mức 200 usd/st.

Thời gian giao hàng CRC giảm xuống 7-8 tuần từ 8 tuần trong khi thời gian giao hàng HDG giảm xuống 7-8 tuần từ 8-10 tuần.

Hầu hết thị trường kỳ hạn HRC CME  Midwest đều tăng trong tuần trước. Giá tháng 12 tăng 24 usd/st lên 1.678 usd/st, trong khi giá kỳ hạn tháng 1 tăng 21 usd/st lên 1.561usd/st. Giá tháng 2 tăng 47 usd/st lên 1.482 usd/st, trong khi giá tháng 3 tăng 50 usd/st lên 1.390 usd/st. Giá tháng 4 tăng 80 usd/st lên 1.325 usd/st. 

Định gtuần thép tấm nội địa Mỹ không đổi ở mức 1.880 usd/st đã giao. Thời gian giao hàng giảm xuống còn 5-7 tuần từ 6-9 tuần do thị trường chờ xem liệu các nhà sản xuất thép có tăng giá đối với tấn tháng 12 hay không.

Giá quặng Trung Quốc giảm do lợi nhuận thép thấp hơn

Giá quặng sắt đường biển giảm hôm thứ Ba do giá thép cũng như biên lợi nhuận giảm.

Chỉ số ICX62% giảm 1,70 usd/tấn khô (dmt) xuống 91,85 usddmt cfr Qingdao. Chỉ số 65% giảm 1,85 usd/dmt xuống 109,50 usd/dmt.

"Các nhà sản xuất thép cây và phôi thép đang hoạt động thua lỗ ở một số khu vực. Giá phôi tiếp tục giảm," một thương nhân ở Đường Sơn cho biết. Ông nói thêm, các lô hàng quặng sắt từ Australia tăng cũng ảnh hưởng đến giá cả.

Một lô 170.000 tấn Pilbara Blend Fines (PBF) với laycan ngày 3-12 tháng 12 được giao dịch ở mức chênh lệch tăng là 0,90 usd/dmt so với chỉ số 62% tháng 12 trên Corex. "Mức chênh lệch tăng trên thị trường thứ cấp thấp hơn," một thương nhân ở đông Trung Quốc cho biết.

Một PBF với laycan từ đầu đến giữa tháng 12  đã được chào bán với mức phí chênh lệch tăng là 1,20 usd/dmt so với chỉ số 62% tháng 12 trên thị trường thứ cấp, thấp hơn so với mức chào giá tại mức chênh lệch tăng 1,40 usd/dmt hôm thứ Hai. Một  PBF được cho là đã giao dịch ổn định so với chỉ số 62% tháng 12 hôm thứ Ba.

Một lô hàng kết hợp tháng 12 khác của Newman High Grade Fines (NHGF) và Newman Blend Lump (NBL) đã được giao dịch với mức chênh lệch giảm 0,50 usd/dmt so với chỉ số 62%  tháng 12 hôm 8/11.

Một thương nhân có trụ sở tại Thượng Hải cho biết: “Một số nhà máy thép đang bán hàng theo hợp đồng dài hạn (LTC) do việc hạn chế sản xuất và biên lợi nhuận thép thấp hơn. "Họ có thể bán mạnh," ông nói thêm.

Một lô Super Special Fines (SSF) 188.000 tấn với laycan ngày 3 đến ngày 12 tháng 12 được giao dịch với mức chênh lệch giảm 40,5% so với chỉ số 62pc tháng 12 trên Globalore. Giá là mức fob cơ bản. BHP đã bán hai lô Mining Area C Fines (MACF), cả hai đều với laycan ngày 6-15 tháng 12, với giá chênh lệch giảm 9,70 usd/dmt cho hàng 90.000 tấn và chênh lệch giảm 9,60 usd/dmt cho hàng 80.000 tấn. Các giao dịch được tính dựa trên mức trung bình của hai chỉ số 62% tháng 12. Một giám đốc nhà máy thép có trụ sở tại Hà Nam cho biết: “Quặng low-grade fines và discounted medium-grade fines được ưa chuộng vì tỷ suất lợi nhuận của thép cây là âm, với mức lỗ lên đến 200-300 ndt/tấn đối với một số nhà máy.

Một lô hàng 240.000 tấn Newman Blend Lump (NBLLU), với laycan ngày 11 đến 20 tháng 12, đã được giao dịch thông qua các cuộc đàm phán song phương với mức chênh lệch giảm 13,80usd/dmt so với chỉ số 62% hôm 9/11. Chi tiết về giao dịch không thể được xác nhận.

Chỉ số quặng PCX 62% tại cảng đã nhích giảm 6 ndt/tấn ướt (wmt) xuống 666 ndt/wmt free-on-truck Qingdao, với mức tương đương đường biển giảm 80 cent/dmt xuống 95,75 usd/dmt cfr Qingdao.

Giao dịch bên bờ cảng kém do quan tâm mua của các nhà máy thép vẫn ở mức thấp với tỷ suất lợi nhuận âm.

Các hạn chế sản xuất tại Đường Sơn đã được nới lỏng một chút kể từ tuần trước, mặc dù một số nhà máy đã đóng cửa các lò cao trong bối cảnh thua lỗ. Một thương nhân có trụ sở tại Thiên Tân cho biết: “Ngay cả việc sử dụng quặng sắt low grade hoặc discounted medium grade cũng không thể giúp các nhà máy thoát khỏi tình trạng thua lỗ và họ không có động lực để tăng sản lượng.

"Chúng tôi đang lỗ 200 ndt/tấn đối với thép cuộn cán nóng, giảm từ mức lợi nhuận 500-600 ndt/tấn trong tháng 10," một giám đốc nhà máy ở Hà Bắc cho biết.

Lợi nhuận giảm dần đã chuyển nhu cầu từ quặng high-grade sang quặng lower grade. "Khoảng cách về giá giữa Iron Ore Carajas (IOCJ) và PBF tại các cảng Sơn Đông đã thu hẹp từ 185 ndt/wmt vào cuối tháng 10 xuống còn 161 ndt/wmt," một thương nhân ở miền đông Trung Quốc cho biết.

Giao dịch PBF khá ít ỏi, ngay cả khi giá giảm xuống 650-665 ndt/wmt tại Đường Sơn và 655-665ndt/wmt tại các cảng Sơn Đông. "Người bán PBF miễn cưỡng giảm giá thêm nữa, trong khi người mua không muốn trả giá cao hơn," một quản lý tại nhà máy ở Handan cho biết.