Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thép xây dựng tuần 22/2015

   THỊ TRƯỜNG THÉP XÂY DỰNG VIỆT NAM TUẦN 22

 

   Từ ngày 29-05 đến ngày 04-06-2015

  1.      Thị trường thép xây dựng trong nước 

Thị trường tiêu thụ thép xây dựng có những chuyển biến rõ ràng hơn trong tuần này, lượng vận chuyển khá ổn định từ đầu tuần. Đối với thép cây, giá nhìn chung trong xu hướng bình ổn, tuy nhiên nhu cầu không cao do đang ở thời điểm mùa mưa nên nhu cầu về thép xây dựng giảm. Từ đầu năm 2015, thị trường nội địa tiêu thụ mặt hàng sắt thép khá tốt, giá bán tại nguồn duy trì ổn định và nhiều dự án lớn đã khởi công. Đây là cơ hội thuận lợi để các nhà sản xuất trong nước bán lượng hàng tồn kho và tăng sản lượng. Tuy nhiên, sản phẩm sắt thép trong nước đang bị sức ép cạnh tranh gay gắt từ thép nhập khẩu giá rẻ.

Giá thép cây JIS 390 phi 12-32mm giao tại nhà máy ở vĩnh Phúc giá là 11 triệu VND/tấn (505 USD/tấn) chưa tính VAT. Phôi thanh có giá trung bình 8 triệu VND/tấn (367 USD/tấn) chưa tính VAT. Đối với hoạt động xuất khẩu vẫn chủ yếu duy trì các thị trường trong khu vực Đông Nam Á và Châu Phi.

Tại cuộc họp báo thường kỳ tháng 5/2015 của Bộ Công Thương ngày 1/6, Vụ trưởng Vụ thị trường trong nước nhận định: căn cứ vào diễn biến giá xăng dầu cơ sở của thế giới, Bộ nhận định giá xăng dầu đã giảm nhẹ trong thời gian gần đây. Giá xăng dầu kỳ này có cơ hội điều chỉnh theo hướng giảm hoặc điều chỉnh quỹ bình ổn hi vọng sẽ có xu hướng tích cực tới hoạt động vận chuyển đảm bảo bình ổn giá.

Thông tin từ Bộ Công thương cho biết, tại khu vực phía Nam, một số nhà sản xuất đã điều chỉnh tăng giá thép khoảng 100 nghìn đồng/tấn nhằm bù đắp một phần giá nguyên liệu và một số chi phí đầu vào tăng. Hiện giá thép cuộn dao động từ 14,9-15,1 triệu đồng/tấn, thép cây 15-15,1 triệu đồng/tấn.

Hiện tại, nhu cầu thép xây dựng tại thị trường nội địa vẫn giữ mức tăng trưởng khá. Lượng tiêu thụ mặc dù có giảm nhẹ so với tháng trước nhưng tăng khá so với cùng kỳ. Lượng sắt thép thô ước đạt 332,5 nghìn tấn (giảm 4,5% so với cùng kỳ); lượng thép cán ước đạt 381,9 nghìn tấn (tăng 21,2%); lượng thép thanh, thép góc ước đạt 364,4 nghìn tấn (tăng 7,9%).

Theo Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam, sản phẩm thép xây dựng 5 tháng 2015 tiêu thụ đạt khoảng 2.466 ngàn tấn, tăng 18% so với cùng kỳ năm 2014. Riêng tháng 5, thép xây dựng tiêu thụ đạt khoảng 550 ngàn tấn. 

2.      Thông tin thị trường giá thép xây dựng các khu vực, nhà máy 

Hầu hết các nhà sản xuất thép ở trong nước nhập thép phế liệu với số lượng lớn, bình quân một lô hàng từ 2.000 tấn trở lên, do đó, doanh nghiệp phải ký quỹ trước 15 ngày khoản tiền bằng 20% tổng giá trị lô hàng phế liệu. Các doanh nghiệp ngành thép đều cho rằng, mức ký quỹ 20% là quá cao, gây khó khăn tài chính cho doanh nghiệp. Từ quý I năm nay, giá thép phế liệu nhập khẩu từ Trung Quốc đã tăng 30% so với cùng kỳ năm ngoái, cộng thêm việc ký quỹ 20% sẽ làm cho giá thành sản phẩm tăng cao, giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp  ngay trên chính thị trường nội địa chứ đừng nói tới xuất khẩu. 

Bảng giá sau đây được tham khảo tại thị trường Miền Bắc, sản phẩm của Công ty Thép Thái Nguyên. Giá bán chưa bao gồm thuế VAT.

Giá bán được tính khi giao hàng tại kho, không bao gồm chi phí vận chuyển của bên mua.

Bảng giá bán thép xây dựng Thái Nguyên

 

STT

 

Chủng loại

 

   Tiêu chuẩn

 

Đvt

 

Giá

1

Thép cuộn Ø6

CT3

đ/kg

13.842

2

Thép cuộn Ø8

13.842

3

Thanh vằn D8

SD295A

13.842

4

Thanh vằn D10

CT5, SD295A

14.340

5

Thanh vằn D12

14.240

6

Thanh vằn D14

14.110

7

Thanh vằn D16

14.110

8

Thanh vằn D18

14.110

9

Thanh vằn D20

14.110

10

Thanh vằn D22

14.110

11

Thanh vằn D25

14.110

12

Thanh vằn ~D40

14.110

13

Thanh vằn D10

SD390, SD490

14.340

14

Thanh vằn D12

14.240

15

Thanh vằn D14

14.110

16

Thanh vằn D16

14.110

17

Thanh vằn D18

14.110

18

Thanh vằn D20

14.110

19

Thanh vằn D22

14.110

20

Thanh vằn D25

13.490

21

Thanh vằn ~D40

13.290

Giá bán thép cuộn tròn trơn xây dựng một số thị trường được tổng hợp theo các ngày trong tuần qua:

 

Bảng giá thép xây dựng

 

Ngày

 

Sản phẩm

 

Khu vực

 

Đvt

 

Giá

03/6/15

Thép cuộn Ø6 Pomina

Bình Dương

đ/kg

15.000

Thép cuộn Ø8 Pomina

15.000

Thép cuộn Ø6

Đồng Tháp

15.200

Thép cuộn Ø8

15.200

Thép cuộn Ø6 LD

Đồng Nai

17.000

Thép cuộn Ø8 LD

17.000

Thép cuộn Ø6 LD

Trà Vinh

13.800

Thép cuộn Ø8 LD

13.800

Thép cuộn Ø6

Long An

13.650

Thép cuộn Ø8

13.650

Thép cuộn Ø6

Bạc Liêu

13.600

Thép cuộn Ø8

13.500

Thép cuộn Ø6

An Giang

14.550

Thép cuộn Ø8

14.500

Thép cuộn Ø6

Hậu Giang

15.000

Thép cuộn Ø8

15.000

 

Thị trường Long An, giá bán sản phẩm thép cuộn có giá bán khá thấp trong các tuần qua, lượng sản phẩm tiêu thụ chỉ ở mức khiêm tốn do nhu cầu từ thị trường vẫn ở mức thấp. Giá bán công bố đối với các dòng sản phẩm thép cuộn Ø6 và Ø8 có giá là 13.650 ngàn đồng/kg tại các đại lý bán lẻ.

Thị trường Bình Dương, giá bán sản phẩm thép cuộn Pomina khá ổn định trong tuần qua, lượng sản phẩm tiêu thụ chỉ ở mức khiêm tốn do nhu cầu từ thị trường vẫn ở mức thấp. Giá bán công bố đối với các dòng sản phẩm thép cuộn Ø6 và Ø8 có giá là 15 ngàn đồng/kg.

Thị trường Đồng Nai, lượng tiêu thụ không có chuyển biến đáng kể nào trong tuần này, giá bán luôn được duy trì ở mức cao qua nhiều tuần. Giá bán thép xây dựng được công bố trong đầu tuần này là 17 ngàn đồng/kg đối với thép cuộn Ø6 và Ø8, giá bán khá cao ở thời điểm hiện tại.

Thị trường Trà Vinh, giá bán lẻ thép cuộn tròn trơn xây dựng LD duy trì mức giá bán thấp hơn các tuần trước đó. Giá bán công bố đối với các dòng sản phẩm thép xây dựng Ø6 là 13.8  ngàn đồng/kg và Ø8 là 13.8 ngàn đồng/kg. Lượng sản phầm bán ra đều đặn, có chiều hướng tăng dần.

3.      Dự báo thị trường thép xây dựng

Dự báo mức tiêu thụ thép xây dựng sẽ tăng nhẹ trong thời gian tới do nhu cầu thép từ các công trình xây dựng đang được triển khai mạnh, nhờ đó, sản phẩm thép xây dựng cũng tăng trưởng cao hơn so với cùng kỳ năm 2014. Tuy nhiên mức tăng trưởng giữa các doanh nghiệp thép vẫn không đồng đều, nổi trội nhất vẫn là thép Hòa Phát, tiếp đến là Tổng công ty Thép Việt Nam, Kyoei, thép Việt…

Dù tiêu thụ thép xây dựng có nhiều thuận lợi nhưng Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam vẫn khuyến cáo: Trong bối cảnh hội nhập, doanh nghiệp thép muốn làm ăn hiệu quả cần phải nâng cao hiểu biết về thông lệ quốc tế, nâng cao tính cạnh tranh về sản phẩm. Bên cạnh đó, cần đầu tư mở rộng kênh bán hàng cũng như quản lý chặt chẽ trong sản xuất, kinh doanh...

Do thị trường ngày càng cạnh tranh khốc liệt, các chuyên gia ngành thép dự báo năm 2015, thép xây dựng tăng trưởng chỉ đạt khoảng 10%-11%. Tuy nhiên, 5 tháng đầu năm, sức tăng trưởng đã vượt xa dự tính ban đầu. Theo Bộ Công thương, hiện Việt Nam đã ký kết 9 hiệp định thương mại tự do và 6 hiệp định đang đàm phán, dự kiến sẽ được ký kết trong cuối năm 2015. Với những mặt hàng Việt Nam đang nhập khẩu nhiều thì đây là thách thức lớn.

Không chỉ cạnh tranh với thép giá rẻ Trung Quốc, gần đây doanh nghiệp thép nội địa còn cạnh tranh với thép từ Hàn Quốc, Nhật Bản nhập khẩu với số lượng lớn vào Việt Nam, trong đó cuộc cạnh tranh với thép Trung Quốc là gay gắt hơn cả. Tìm hiểu ở một số công ty xây dựng, chủ thầu hầu hết đều khẳng định, sắt thép của Trung Quốc chất lượng, kích thước phần lớn kém xa hàng Việt, nhưng vì giá rẻ nên nhiều công trình, dự án vẫn sử dụng. Đây được coi là trở ngại lớn của ngành thép xây dựng trong nước.

Dự báo lượng sản phẩm thép xây dựng nhập khẩu sẽ còn tăng cao khi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Hàn Quốc chính thức được ký kết. Hiện nhu cầu sử dụng thép hợp kim dùng trong xây dựng rất lớn, song hầu như chưa doanh nghiệp Việt nào sản xuất được, chưa kể loại thép này giá rẻ hơn nhiều so với thép dùng trong xây dựng trong nước nên doanh nghiệp Việt đang mất dần lợi thế cạnh tranh ngay trên chính sân nhà.

Lưu ý: Bảng giá trên đây được tham khảo tại các công ty, đại lý chuyên cung cấp thép xây dựng. Vì vậy bảng giá bán này chỉ để tham khảo không phải là giá cố định mà được điều chỉnh dựa trên số lượng lô hàng, khách hàng khi mua tại các công ty hay đại lý, phương tiện vận chuyển và hình thức thanh toán tùy thuộc vào vùng miền.

 4.      Giá các mặt hàng thép cơ bản Việt Nam

 

 

Chào giá (đ/kg)

Xuất xứ

Giá

Tăng /giảm

Cuộn trơn Ø6, Ø8

Trung Quốc

  9.400

Giảm 500

Thép tấm 3,4,5 mm

Trung Quốc

  9.300

Giảm 300

Thép tấm 6,10,12 mm

Trung Quốc

  9.600

Giảm 100

Thép tấm 8 mm

Trung Quốc

  9.600

Giảm 200

HRC 2mm

Trung Quốc

  9.800

Tăng 100

 

 

 

 

 

 

Tổng quan thị trường thép thế giới tuần 22 

 CIS

Áp lực giá chào phôi thanh thấp từ Trung Quốc cộng với tiêu thụ trì trệ tại Thổ Nhĩ Kỳ đã kéo giá phôi thanh CIS giảm và có thể còn giảm nữa.

Gía chào phôi thanh CIS đạt mức 375 USD/tấn FOB do giá cao không được chấp nhận. Vài đơn hàng được chốt tại mức 365-370 USD/tấn FOB từ cả Nga và Ukraina.

Thổ Nhĩ Kỳ

Nhu cầu tiêu thụ thấp do sắp bước vào Lễ bầu cử đã gây khó khăn cho việc giữ giá xuất xưởng của các nhà máy HDG và PPGI Thổ Nhĩ Kỳ.

Các nhà máy đang cố gắng duy trì giá niêm yết trong nước cho HDG 0.5mm tại mức 630-650 USD/tấn xuất xưởng tuần này trong khi giá chào PPGI 9002 0.5mm bình ổn tại mức 730-750 USD/tấn xuất xưởng, tuy nhiên, họ cũng chiết khấu để thúc đẩy nhu cầu tiêu thụ.

Gía chào xuất khẩu HDG 0.5mm vẫn tương đối bình ổn tại mức 600-630 USD/tấn FOB trong khi giá chào PPGI 9002 0.5mm đạt mức 700-730 USD/tấn FOB trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt và tiêu thụ thấp.

Gía HRC Thổ Nhĩ Kỳ đã suy yếu nhẹ trở lại do nhu cầu tiêu thụ suy yếu trước Lễ bầu cử ngày 7/6 trong bối cảnh bất ổn và thiếu hụt tiền mặt trên thị trường. Các nhà máy nội địa nhìn chung đã bắt đầu chào bán HRC tại mức 435-445 USD/tấn xuất xưởng kèm chiết khấu, giảm 5 USD/tấn so với tuần trước đó trong khi giá niêm yết từ các nhà môi giới suy yếu trong bối cảnh tiêu thụ trì trệ.

Trong khi đó, giá chào HRC từ CIS tới Thổ Nhĩ Kỳ vẫn tương đối bình ổn kể từ tuần qua trong bối cảnh tiêu thụ hàng nhập khẩu cũng thấp do bầu cử và tỷ giá đồng Lira biến động. Gía chào HRC từ Ukraina đạt mức 375-385 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ trong khi giá chào mới nhất từ Nga là 385-395 USD/tấn CFR trong tuần qua trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt từ Trung Quốc.

Gía xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ cũng giảm do các đơn hàng bán vào UAE giao tháng 7 thấp hơn nhiều so với giá chào bán trong tháng qua. Mức giá 465 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ có sẵn trong tuần này nhưng chưa có đơn hàng. Gía nhập khẩu vào Mỹ vẫn ở mức 480-485 USD/tấn CFR Houston cho các đơn hàng nhỏ hơn.

Châu Âu

Thị trường Châu Âu không có chuyển biến mới tuần này. Thị trường đã suy yếu hơn nữa do Lễ ở vài nước Châu Âu gồm Đức.

Trong khi các nhà máy Tây Bắc Âu tìm kiếm giá mong muốn 400-405 Euro/tấn, áp lực từ các nhà máy Đông Âu và các nhà cán lại Nam Âu sẽ kéo giá giảm hơn nữa.

Mỹ

Mặc dù giá phế vụn Midwest Mỹ tăng gần 20 USD/tấn trong tháng 6 nhưng thị trường thép cuộn Mỹ đã rơi vào trạng thái trầm lắng sau các vụ kiện thương mại chống lại thép tấm không gỉ nhập khẩu.

Có ít nhất 2 nhà máy chào bán CRC và HDG tại mức 600 USD/tấn. Các vụ kiện thương mại sẽ không làm thay đổi thị trường nhanh chóng nhưng sẽ có hiệu quả từ giữa Q3.

Gía HRC vẫn ở mức 455-477 USD/tấn và cũng có người mua với giá thấp hơn 460 USD/tấn một ít hồi cuối tuần qua.

 Châu Á

Giá giao ngay của cuộn trơn nhập khẩu tới Châu Á sụt giảm trong tuần thứ ba liên tiếp, bị áp lực bởi sự thờ ơ của người mua trong khu vực cùng với giá thép Trung Quốc suy yếu.

Một  thương nhân Trung Quốc đã bán cuộn trơn dạng lưới hồi đầu tuần này với giá 355 USD/tấn CFR Việt Nam (phí vận chuyển xấp xỉ 13 USD/tấn),  hạn giao vào cuối tháng 6. Thép dây dạng kéo khi được xuất khẩu từ Trung Quốc thường chứa nguyên tố bo, có giá cao hơn 20-30 USD/tấn so với thép dây dạng lưới chứa cr.

Giá HRC giao ngay nhập khẩu ở Châu Á dao động ở mức thấp kỷ lục và nhiều thật khó để dự báo thị trường sẽ đi về đâu, ngay cả khi thị trường Trung Quốc có dấu hiệu phục hồi nhẹ.

Một nhà máy hàng đầu ở Trung Quốc đã chào bán các lô hàng vận chuyển tháng 7 với giá 370 USD/tấn CFR Việt Nam, tức khoảng 355 USD/tấn FOB sau khi trừ đi phí vận chuyển. Nhà máy chào bán lô hàng này cho biết đây là mức giá mà công ty sẵn sàng chốt hợp đồng.

Giá thép cây nhập khẩu ở Châu Á cũng suy yếu trong tuần thứ ba liên tiếp, do sức mua trì trệ trước mùa mưa ở miền nam Trung Quốc và Đông Nam Á tiếp tục gây sức ép lên giá. Nhiều người vẫn còn bi quan về xu hướng giá sắp tới, do nguồn cung quá nhiều vì các nhà máy Trung Quốc tìm đủ cách tăng cường xuất khẩu để bù đắp nhu cầu teo tóp trong nước.

Ở Singapore, một thương nhân đã hạ chào giá xuống 5 USD/tấn so với tuần trước còn 335 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, do khách hàng chỉ quan tâm đặt mua ở mức giá này. Mức này tương đương 328 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, gồm phí vận chuyển 17 USD/tấn và dung sai 3%.

Hàn Quốc

Nhu cầu tiêu thụ thép cây ở Hàn Quốc mạnh hơn đã dẫn đến giá giao ngay tăng lên 10.000-20.000 Won/tấn (9-18 USD/tấn) trong hai tuần qua. Giá giao ngay của loại SD400 đường kính 10mm được sản xuất ở trong nước đã tăng lên 530.000-540.000 Won/tấn (480-489 USD/tấn) ở Seoul.

Đài Loan

Feng Hsin không thay đổi giá thép cây trong nước trong tuần thứ ba liên tiếp. Giá niêm yết trong nước cho thép cây đường kính chuẩn 13mm vẫn duy trì mức 13.600 Đài tệ/tấn (441 USD/tấn) xuất xưởng Taichung, có hiệu lực từ ngày thứ Hai.

Ấn Độ

Chào giá HRC nhập khẩu thấp đang làm ảnh hưởng nhiều hơn tới thị trường Ấn Độ vốn dĩ đã suy yếu. HRC SS400 loại thương phẩm dày trên 3mm của Trung Quốc tuần này tiếp tục dao động quanh mức 335 USD/tấn FOB (370 USD/tấn CFR tức 23.674 rupees/tấn). Mức giá này tương đương 424 USD/tấn gồm thuế hải quan 7.5%.

Chào giá HRC loại cán lại của Hàn Quốc và Nhật Bản phổ biến khoảng 400-405 USD/tấn CFR Mumbai trong tuần này. HRC nhập khẩu của hai nước này bị áp thuế hải quan dưới 1% do các hiệp định thương mại song phương. 

Tổng quan thị trường thép Trung Quốc tuần 22 

Tuần đầu tiên của tháng 6 với đầy rẫy những khó khăn trên thị trường thép, hầu hết các loại thép vẫn tiếp tục trượt dốc khi sắp tới mùa mưa trong khu vực khiến sức mua thu hẹp, cộng thêm tâm lý bi quan cố hữu nên chắc chắn thị trường sẽ còn gặp rất nhiều thách thức trong việc tiêu thụ.  

Thị trường trong nước 

Thép xây dựng 

Giá thép cây bán lẻ ở miền bắc lại giảm trong tuần này do các thương nhân cố gắng tăng doanh số bằng cách giảm giá cho phù hợp với sức mua trì trệ. Hôm 01/6, giá giao ngay cho thép cây HRB400 đường kính 18-25mm ở thị trường Bắc Kinh được chốt tại 2.250-2.255 NDT/tấn (363-364 USD/tấn) trọng lượng thực tế và gồm 17% VAT, giảm tới 10 NDT/tấn (2 USD/tấn) so với thứ sáu tuần. Điều này cũng cho thấy sự thất bại trong nỗ lực đưa ra mức giá sàn gần đây của Hebei Iron & Steel nhằm hỗ trợ cho thị trường.  

Thép dây Q195 đường kính 6.5mm cũng giảm 5 NDT/tấn (1 USD/tấn) so với tuần trước còn 2.250-2.260 NDT/tấn xuất xưởng Thượng Hải gồm 17% VAT.  

Thép công nghiệp 

Nhìn chung những lần tăng gần đây trong giá quặng sắt vẫn chưa tác động đến thị trường HRC, bởi nguồn cung quá lớn trong khi lực cầu yếu ớt, lượng giao dịch khiêm tốn, nhu cầu suy yếu làm hạn chế sự phục hồi của giá, tuy nhiên với mức giá thấp như hiện nay cũng sẽ ngăn không cho giá giảm sâu hơn. Hôm thứ Năm, HRC Q235 5.5mm được định giá 2.380-2.390 NDT/tấn (384-386 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT.  

Platts định giá CRC ở mức 2.910-3.010 NDT/tấn (469-486 USD/tấn) ở Thượng Hải, giảm 5 NDT/tấn so với đầu tuần trước. Tuy hiện giờ giá vẫn dao động quanh mức này nhờ lượng hàng tồn thấp nhưng dự báo nhu cầu từ các nhà sản xuất sẽ kém hơn trong tháng 6 và 7 do sắp tới mùa mưa. 

Thị trường xuất khẩu 

Đến thứ Năm, giá HRC vẫn chưa rời bỏ mức thấp kỷ lục đã chạm đến từ ngày đầu tuần, có vẻ như thị trường đang rơi vào bế tắc trong bối cảnh thị trường nội địa mất đà tăng do sức mua suy yếu. Hôm thứ Năm, Platts định giá HRC SS400 dày trên 3mm là 350-355 USD/tấn FOB Trung Quốc, không đổi so với ngày trước đó.

Giá xuất khẩu cuộn trơn tới Châu Á sụt giảm trong tuần thứ ba liên tiếp do bị áp lực bởi sự thờ ơ của người mua trong khu vực cùng với giá thép trong nước suy yếu. Hôm thứ Tư, Platts định giá cuộn trơn dạng lưới 6.5mm giảm 2,5 USD/tấn còn 342-345 USD/tấn FOB.

Tương tự, thép cây cũng có tuần giảm giá thứ ba liên tiếp ở thị trường Châu Á do sức mua trì trệ trước mùa mưa ở miền nam Trung Quốc và khu vực Đông Nam Á tiếp tục gây sức ép lên giá. Nhiều người vẫn còn bi quan về xu hướng giá sắp tới, do nguồn cung quá nhiều vì các nhà máy Trung Quốc đang tìm đủ mọi cách xuất khẩu để bù đắp nhu cầu teo tóp trong nước. Hôm thứ năm, Platts định giá thép cây BS460/HRB400 đường kính 16mm giảm 2 USD/tấn so với tuần trước còn 327-332 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế.

Chào giá tới Singapore cũng giảm 5 USD/tấn so với tuần trước còn 335 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, do khách hàng chỉ quan tâm đặt mua ở mức giá này. Tương tự, người bán vẫn ngoan cố giữ nguyên mức giá 350 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế ở Hong Kong, nhưng cũng vắng người mua.

Giá xuất khẩu CRC tiếp tục suy yếu trong tuần này do nhu cầu ở nước ngoài teo tóp. Platts định giá CRC SPCC dày 1.0mm ở mức 400-405 USD/tấn FOB hôm thứ Ba, giảm 6,5 USD/tấn từ đầu tuần trước. Hiện vẫn chưa nhìn thấy dấu hiệu nào cho thấy nhu cầu sẽ phục hồi và do đó không thể biết khi nào giá sẽ chạm đáy.