Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Tổng quan thị trường thép thế giới tuần 35

Mỹ

Các dữ  liệu gần đây từ Markit cho thấy chỉ số PMI Mỹ  đã tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 4 năm 2010. Tuy nhiên, bất chấp  tâm lý tích cực và giá phế trong nước tăng, giá thép cuộn Mỹ dường như đã hứng chịu áp lực  trong tuần do nguồn cung tăng. Dù vậy, giá thép cuộn vẫn không đổi tại mức 750-755 USD/tấn thông qua sự kết hợp của các vụ kiện thương mại và các hạn chế trong dịch vụ giao nhận hàng.

Nhu cầu thu mua mạnh trong khi nguồn cung giảm, đặc biệt là phế chất lượng cao là động lực thúc đẩy giá phế tại Mỹ tăng. Các nguồn tin dự báo giá phế vụn Midwest có thể tăng thêm tối thiểu 5-10 USD/tấn vào  tháng 9.Nhu cầu tiêu thụ tại Southeast tăng vững chắc hơn các thị trường khác nhờ ưu thế các  nhà máy EAF tại đây sản xuất thép thương phẩm nên doanh số bán hàng cao. Tuy nhiên, sự suy yếu của giá quặng và tình hình trầm lắng của thị trường thép có thể sẽ gây áp lực lên thị trường.

Giá thép ống dẫn dầu Mỹ dường như sẽ không nhận được bất kỳ lực đẩy nào từ điều tra chống bán phá giá  của Uỷ Ban Thương Mại ít nhất cho tới tháng 9 hoặc 10. Một thương nhân ước tính giá thép ống J55 sẽ tăng lên mức 250-300 USD/tấn vào cuối năm.

CIS

Căng thẳng leo thang tại miền đồng Ukraina vẫn đang là mối lo cho ngành sản xuất CIS hiện tại do có nhiều  cơ sở sản xuất bị hư hại bởi các xung  đột vũ trang. Nguồn cung phôi thanh thiếu hụt do nhà máy Metinvest vẫn chưa chào bán ra thị trường cũng gây khó khăn cho quá trình sản xuất thép của các nhà máy trong khu vực.

Số lượng các nhà xuất khẩu thép cây và cuộn trơn CIS đã giảm, hiện tại gồm có một tập đoàn nhỏ BMZ của Belarus, MMZ của Moldova và ArceloMittal Kryviy Rih sau khi nguồn cung phôi thanh bị giới hạn do Metinvest không chào bán và chi nhánh Makeyevka của Yenakiieve Iron & Steel Works cũng bị hư hại trong cuộc chiến tranh Ukraina buộc phải ngưng sản xuất hồi giữa tháng này với thời hạn không xác định.

Tuy nhiên, bất chấp công suất sản xuất bị hạn chế và là cơ hôi tăng giá phôi thanh FOB Biển Đen, giá xuất khẩu thép cây và cuộn trơn CIS vẫn miễn dịch với các nhân tố này, hơn thế nữa, các nhà máy CIS đang vật lộn giữ giá ổn định trong thị trường tràn ngập hàng cung từ Trung Quốc. Hiện tại, các nhà máy  CIS hầu như đã bán hết thép tháng 9 với giá 540-550 USD/tấn đối với cuộn trơn và 530-540 USD/tấn với thép cây FOB Biển Đen.

Trong khi đó, dù nguồn cung thiếu hụt, nhưng với giá quặng suy giảm mạnh, cán mức đáy mới 87.51 USD/tấn và áp lực từ chào cạnh tranh của Trung Quốc vào các thị trường Trung Đông, gía phôi thanh CIS có thể còn suy yếu hơn nữa. Trong khi các nhà máy Ukraina và Nga đang cố gắng giữ giá tại mức 520 USD/tấn FOB Biển Đen, một thương nhân cho rằng tuần này, giá phôi thanh có sẵn tại mức 514-515 USD/tấn FOB.

Tuy nhiên, nguồn cung giảm lại có hiệu ứng tích cực đối với thép tấm Nga cộng với giá phế trong nước tăng. Hiện tại, các nhà máy này cho biết đã thành công trong việc tăng giá thép sản xuất tháng 9 thêm 100-250 Rub/tấn (3-7 USD/tấn), tăng 0.5-1% so với tháng trước. Tuy nhiên, mức tăng này không không đủ để bù đắp đà tăng giá phế. Trong vòng 10-14 ngày qua, giá phế đã tăng 400 Rub/tấn (11 USD/tấn) , hơn 4%. Tại khu vực dãy Urals, khu vực chuyên sản xuất thép tấm, giá phế 3A hiện tại là 9.700-10.200 Rub/tấn (268-282 USD/tấn) xuất bãi, tức 10.399-19.450 Rub/tấn (285-290 USD/tấn) đã gồm phí vận chuyển.

Đối với tháng 9, giá chào bán thép tấm 16-400mm hiện tại là 19.650-19.750 Rub/tấn (544-547 USD/tấn) xuất xưởng. Nếu giao hàng tới Maxcova, giá sẽ đạt mức 21.350-21.500 Rub/tấn (591-595 USD/tấn) CPT.

Châu Âu

Giá phế tăng tại Châu Âu đã hỗ trợ giá thép trong khu vực tăng. Tâm lý thị trường cũng cải thiện đáng kể dựa trên các dự báo nhu cầu tiêu thụ phục hồi trong tháng tới. Tuy nhiên, thị trường vẫn chưa hồi phục đáng kể sau hè.

Giá thép cây Châu Âu tiếp tục tăng trong tuần này do các nhà máy vẫn kiên trì giữ giá chào cao. Tại Pháp và Benelux, giá chào thép cây đạt mức cao 480 Euro/tấn với giá giao dịch thấp hơn 10 Euro/tấn mặc dù đơn hàng vẫn khan hiếm. Các nhà máy Đức cho biết đã bán được vài đơn hàng khối lượng nhỏ tại mức 480-490 Euro/tấn, tuy nhiên, sức mua vẫn giới hạn và dự báo không cải thiện cho tới cuối tháng 9.

Giá thép cuộn tại thị trường Châu Âu dường như sắp tăng do các nhà máy đang có ý định tăng giá chào Q4 thêm 20-30 Euro/tấn và người mua không loại trừ khả năng chấp nhận giá tăng, đẩy giá HRC lên mức 435-440 Euro/tấn giao tại Ruhr. Mặc dù mức tăng này khó mà được người mua trả đủ trong tháng này, nhưng họ sẽ vẫn trả cao hơn một ít so với tháng trước. Trong khi giá quặng đang suy yếu, động lực tăng giá của thị trường Châu Âu là ở sức mua tăng và ít chịu áp lực cạnh tranh từ hàng nhập khẩu trong mấy tháng qua.

Tuy nhiên, thị trường ống đúc Châu Âu tiếp tục gánh chịu áp lực đè nặng từ sức mua suy yếu và sự cạnh tranh gay gắt trong tháng 8 do cung vượt xa cầu. Gía giao dịch thép ống đúc loại S355 đường kính 60-160mm vẫn ở mức 880-930 Euro/tấn đã gồm phí giao hàng.

Thị trường đã rơi vào bế tắc trong hơn 1 năm qua do sức mua ngày một suy yếu dựa trên bất ổn chính trịt ại Ukraina và Syria. Hơn thế nữa, các nhà máy lại đang phải sản xuất với lợi nhuận teo tóp nên không thể buộc họ giảm giá chào bán.  Các nhà máy Châu Âu còn phải đương đầu với áp lực từ nguồn hàng nhập khẩu giá rẻ vào Đông Âu. Gía chào từ Ukraina là 850 Euro/tấn đã tính phí vận chuyển.

Các nhà máy thép hình EU đã bắt đầu tăng giá chào bán nhờ sự hỗ trợ từ giá phế tăng. Trong khi thép hình loại 1 có thể được bảo toàn tại  mức 500-510 Euro/tấn  nửa tháng trước  thì giá giao dịch đạt mức 510-520 Euro/tấn.

Thổ Nhĩ Kỳ

Thị trường thép Thổ Nhĩ Kỳ tuần này nhìn chung ổn định do sức mua trong và ngoài nước vẫn thấp dù giá HRC có tăng.

Giá chào HDG 0.5mm trong nước vẫn ở mức 790-810 USD/tấn xuất xưởng và giá xuất khẩu cũng bình ổn tại mức 775-785 USD/tấn FOB. Gía niêm yết thép cuộn mạ màu PPGI 9002 0.5mm cũng ổn định tại mức giá 880-920 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá xuất khẩu đứng yên ở mức 870-910 USD/tấn FOB. Tuy nhiên, các nhà máy vẫn chiết khấu 10 USD/tấn cho khách hàng do sức mua thấp.

Trong khi đó, đà tăng giá HRC sẽ chậm lại trong những ngày tới và các nhà máy đang chào bán HRC sản xuất tháng 10 tại mức 590-605 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá giao dịch là 590-595 USD/tấn xuất xưởng.

Các nhà máy thép cây Thổ Nhĩ Kỳ vẫn đang tiếp tục vật lộn với thị trường nhằm thu được giá bán cao 575-580 USD/tấn FOB tuần này do nhu cầu tiêu thụ từ Trung Đông và Bắc Phi vẫn suy yếu và sự cạnh tranh mạnh mẽ từ Trung Quốc sau khi giá quặng giảm xuống mức thấp nhất kể từ năm 2009.

Giá chào từ các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tới thương nhân là 580 USD/tấn FOB, tuy nhiên, không có ai mua hàng, thậm chí ở mức 5757 USD/tấn. Có thể các nhà máy sẽ phải hạ giá xuống mức 565-570 USD/tấn để có thể cạnh tranh với hàng Trung Quốc.

Giá chào CRC trong nước từ các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ vẫn đạt mức 690-700 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá chào xuất khẩu CRC cũng bình ổn ở mức 675-685 USD/tấn xuất xưởng. Gía chào bán từ các nhà môi giới chỉ cao hơn  giá xuất xưởng  10-20 Euro/tấn . Giá nhập khẩu từ CIS cũng tương đối ổn định. Gía chào xuất khẩu từ CIS là 640-670 USD/tấn CFR trong khi nguồn cung từ Ukraina thiếu hụt do  Metinvest không cung cấp.

Đông Á

Thị trường nhập khẩu phôi tấm trở nên mạnh mẽ tại Đông Á tháng này nhờ nguồn cung từ CIS sụt giảm, nhất là Ukraine.

Gía chào mua phôi tấm của CIS hồi đầu tháng này là  495-500 USD/tấn CFR Indonesia nhưng hiện tại không còn nữa. Các nhà máy Nga phần lớn cũng đã rút khỏi thị trường và dự định sẽ tăng chào giá, có thể lên 515-520 USD/tấn CFR.

Tuy nhiên, lượng phôi tấm dày từ 150mm trở lên xuất khẩu từ Trung Quốc có thể gây sức ép cho giá nhập khẩu. Những loại phôi tấm xuất khẩu này gần đây được bán với giá 485-490 USD/tấn CFR tới Indonesia và Ân Độ, dưới tên gọi là thép tấm dày cán nóng nhằm trốn thuế.

Ấn Độ

Giá HRC tại Ấn Độ vẫn không đổi từ cuối tháng 07 đến nay do áp lực cạnh tranh từ hàng nhập khẩu giá rẻ Trung Quốc.

Các giao dịch  HRC IS 2062 loại A/B dày từ 3mm trở lên được thực hiện với giá 34.500-35.500 Rupee/tấn (571-587 USD/tấn) xuất xưởng, không đổi so với tuần trước,  tương đương 531-546 USD/tấn CFR Mumbai (trong đó thuế nhập khẩu là 7,5%).

Mặc dù chào giá nhập khẩu tới Ấn Độ thưa thớt nhưng chào giá HRC loại thương phẩm SS400 dày từ 3mm trở lên xuất xứ Trung Quốc tuần này có giá 500-505 USD/tấn FOB. Mức giá này tương đương khoảng 530-535 USD/tấn CFR Mumbai, cho thấy khoảng cách chênh lệch giữa giá trong nước và nhập khẩu đã thu hẹp lại. Các chào giá từ Trung Quốc hồi cuối tháng 07 là 537-539 USD/tấn CFR Mumbai.

Trung Đông

Thị trường thép cây UAE đã phát đi tín hiệu cải thiện trong thời gian gần đây nhờ nhu cầu tiêu thụ tăng sau khi thắng thầu đăng cai tổ chức hội chợ triển lãm 2020.

Thép cây đường kính 6-8mm được bán với giá bình quân 2.430,83 AED/tấn (661,85 USD/tấn) xuất xưởng trong quý II, tức cao hơn 12,5 AED/tấn so với quý I và đạt mức cao nhất từ quý I năm ngoái. Giá bán lẻ trung bình 2.408,33 AED/tấn hồi quý IV/2013 là mức thấp kỷ lục từ khi bắt đầu theo dõi giá vật liệu xây dựng vào năm 2011.

Emirates Steel Industries, nhà sản xuất thép liên hợp duy nhất ở UAE, đã tăng giá bán sỉ cho các lô hàng giao tháng 09 lên mức cao nhất trong 12 tháng, cán mốc 2.280 AED/tấn (621 USD/tấn) xuất xưởng. Trong khi đó đối thủ cạnh tranh Conares, lại giảm giá xuống 2.251 AED/tấn.

Đài Loan

China Steel Corp (CSC) đã duy trì giá bán cho tháng 10 và 11 ở trong nước không đổi cho tất cả các sản phẩm của mình. Sức mua và giá được cho là sẽ cải thiện trong quý IV nhưng ngành thép Đài Loan tiếp tục phải đối mặt với sức ép từ một khối lượng lớn thép nhập khẩu tràn vào.

Theo đó, giá niêm yết của CSC cho HRC loại SPHC và CRC loại SPCC vẫn ở mức lần lượt là 20.061 Đài tệ/tấn (669 USD/tấn) và 23.047 Đài tệ/tấn (768 USD/tấn), theo tính toán của Platts từ những thông báo thay đổi giá của CSC.

Hàn Quốc

Nhà sản xuất thép Posco Specialty Steel sẽ giữ nguyên giá bán trong nước cho cuộn trơn và thép thanh không gỉ austenite đối với những hợp đồng tháng 09. Thông thường sức mua trong nước vào 6 tháng cuối năm sẽ bắt đầu cải thiện từ tháng 09 nhưng Posco SS lại quyết định duy trì giá bán của mình là do giá niken suy yếu.

Giá giao dịch bằng tiền mặt của niken trên sàn London Metal Exchange dao động quanh mức 18.275-18.860 USD/tấn trong suốt tháng 08 và chốt ở mốc 18.805 USD/tấn vào ngày 26/8. Mức giá bình quân của niken trong tháng 07 là khoảng 19.200 USD/tấn.

Posco SS, không tiết lộ giá bán của công ty nhưng theo các nguồn tin ước tính thì giá cơ bản cho cuộn trơn 300-series vào tháng tới sẽ duy trì mức 4-4,1 triệu Won/tấn (3.941-4.040 USD/tấn).

Nhật Bản

Tôn cán nguội austenite và ferrite ở Nhật Bản có vẻ như sẽ tăng cao hơn do các nhà phân phối đang nỗ lực thâu tóm giá tăng trước đó từ các nhà máy.

Giá hiện tại trên thị trường cho tôn cán nguội loại 304 dày 2mm ở Tokyo khoảng 330.000 Yên/tấn (3.173 USD/tấn), còn tôn cán nguội loại 430 là 250.000 Yên/tấn (2.404 USD/tấn). Cả hai mức giá này đều tăng khoảng 10.000 Yên/tấn so với đầu tháng 07.

Đài Loan

Feng Hsin Iron & Steel đã tăng giá mua phế trong nước thêm 200 Đài tệ/tấn (7 USD/tấn) lên 10.300 Đài tệ/tấn trong ngày đầu tuần nhưng lại giữ giá thép cây không đổi trong tuần thứ 10 liên tiếp.

Theo đó, thép cây đường kính chuẩn 13mm tại Feng Hsin vẫn giữ ở mức 17.900 Đài tệ/tấn xuất xưởng Đài Trung.

Giá nhập khẩu của phế 80:20 (lô nhỏ) vào Đài Loan hôm thứ Sáu tăng 1 USD/tấn so với tuần trước đó lên 350 USD/tấn CFR.