Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Tổng quan thị trường thép thế giới tuần 17

Tổng quan thị trường thép thế giới tuần 17

 Có lẻ những tuần qua là quảng thời gian khó khăn nhất đối với các nhà kinh doanh thép trên thế giới khi phải hứng chịu cảnh giao dịch đìu hiu lê bước kéo dài.

Nói như vậy không có nghĩa là tuần này không có chuyển biến mới nhưng hầu như những tín hiệu lạc quan đều dành cho thị trường Châu Âu mà thôi.

Tuần này, thị trường thép Châu Âu dường như lấn lướt Châu Á và các khu vực khác. Có thể nói các điểm sáng cũng chỉ tập trung ở vùng trời Châu Âu, còn Châu Á vẫn le lói tín hiệu nhưng rất mập mờ khó đoán.

Sau khi trải qua áp lực nặng nề từ đồng EUR tăng mạnh khiến thép châu Âu đuối sức cạnh tranh cùng thép nhập khẩu từ các nước Châu Á sang, tuần này hầu hết giá các sản phẩm thép khu vực này đã phục hồi trở lại vì nhu cầu cải thiện khá mạnh. Niềm tin cũng đứng vững hơn vì khách hàng cho rằng mức giá hiện tại đã là chạm đáy và bắt đầu lập kế hoạch gom hàng trước khi giá tăng trở lại.

Còn tại thị trường Châu Á, một số nước quyết định điều chỉnh tăng giá thép nội địa lẫn xuất khẩu cho các giao dịch tháng 05, nhưng không phải được lực mua hậu thuẫn mà do chi phí nguyên liệu đầu vào quá cao nên muốn nâng giá để tránh tình trạng bán chịu lỗ như trước.

Còn Đông Nam Á thì tạm thời vẫn chưa có gì cần bàn tới vì vẫn một mực duy trì bầu khí ảm đạm từ mấy tuần trước.

Tương tự, Trung Quốc cũng theo quỹ đạo chung của các nước Châu Á khi một số nhà sản xuất dự định nâng giá bán nhưng không phải bị tác động mạnh bởi nhu cầu mà là do chi phí nguyên liệu đầu vào như giá than và quặng vẫn theo đà tăng dài hạn.

Châu Á

Đông Nam Á

Sau 05 ngày giao dịch ngắn ngủi, thị trường thép Đông Nam Á tuần này không có gì mới mẻ, mà thay vào đó vẫn phải trải qua tình trạng ế ẩm trên thị trường.

Cùng với sự suy yếu của thị trường thép thanh nội địa, phôi tấm nhập khẩu từ nước ngoài chưa được khách hàng tại khu vực này chú ý.

Tại Thái Lan, 10.000 tấn phôi 3sp từ Nga được đặt mua cuối tuần trước với giá 650 USD/tấn cfr và khoảng 20.000 tấn phôi từ Viễn Đông Nga được đặt mua trong tuần qua với giá 658 USD/tấn cfr, áp dụng cho các giao hàng tháng 06. Phôi tấm chất lượng cao từ CIS hiện có giá chào ở khoảng 690-710 USD/tấn cfr, còn giá chào từ Hàn Quốc là 720-730 USD/tấn cfr. Tuy nhiên khách hàng chỉ chấp nhận mua với giá thấp hơn 40-50 USD/tấn.

Tại Philippine, tuy nhu cầu thấp nhưng giá phôi tuần này đã phục hồi trở lại 670 USD/tấn từ mức giá giữa tháng 04 là 665 USD/tấn cfr.

Tại Indonesia, các giá chào từ Nga vẫn ổn định ở mức 660 USD/tấn cfr, còn từ Hàn Quốc là 675 USD/tấn.

Tại Việt Nam, phôi từ Malaysia và Thailand được chào bán ở đây với giá 660-665 USD/tấn cfr. Tất cả các lô hàng trên đều được các thương nhân chào bán, còn giá chào từ các nhà sản xuất Châu Á là 680-690 USD/tấn cfr, nhưng giá chào mua là 660 USD/tấn. Phôi Thái Lan được các thương nhân Việt Nam đặt mua hồi giữa tháng 04 với giá 675 USD/tấn cfr.

Các giá chào phôi từ Hàn Quốc, Nga và Mỹ sang Việt Nam tuần này là 660 USD/tấn cfr, nhưng khách hàng chỉ chấp nhận với mức giá thấp hơn 15-20 USD/tấn. Giá bán xuất xưởng tại thị trường nội địa tuần trước là 14,4-14,5 triệu VND/tấn (696-700 USD/tấn), chưa bao gồm thuế VAT.

Đài Loan

Sau 04 tuần giảm liên tiếp, thị trường thép cây Đài Loan tuần này xuất hiện tín hiệu vui trở lại với các nhà sản xuất khi giá dần đi vào quỹ đạo phục hồi. Tuy nhiên mức tăng chưa nhiều nên khả năng các nhà sản xuất sớm phải cắt giảm công suất nhằm hạn chế áp lực từ chi phí.

Niềm tin thị trường cải thiện nhiều hơn khi các nhà sản xuất hàng đầu quyết định nâng giá nội địa thêm 200 Đài tệ/tấn (7 USD/tấn).

Feng Hsin Iron & Stee trong tuần này cũng điều chỉnh giá thép cây SD 280 kích thước vừa tăng lên 20.500 Đài Trung/tấn (709 USD/tấn). Hai Kwang Enterprise Corp cũng nâng giá xuất xưởng lên 20.000 Đài tệ/tấn trong tuần này.

Bên cạnh đó, CSC cũng đã thông báo điều chỉnh giá bán thép nội địa tháng 4 và tháng 5 với mức tăng trung bình khoảng 2,811 Đài tệ (96.92 USD) mỗi tấn (tương đương 12.1%). Giá thép cuộn trơn tăng thêm 2,500 Đài tệ/tấn. Giá thép cuộn mạ kẽm tăng thêm 3,500 Đài tệ/tấn. Thép cuộn mạ kẽm nhúng nóng cũng tăng thêm 3,167 Đài tệ/tấn. Thép cán nóng, cán nguội và thép cuộn điện từ cũng tăng lần lượt với các mức 2,945; 2,747 và 2,000 Đài tệ mỗi tấn.

Tuy nhiên, nhà sản xuất này quyết định giữ nguyên giá xuất khẩu đối với hầu hết các sản phẩm thép tháng 06, và sẽ chỉ tăng thêm 20-30 USD/tấn đối với HDG và cuộn mạ điện.

Cũng trong tuần này, nhà sản xuất cán lại của Đài Loan là Chung Hung quyết định duy trì giá HRC và CRC tháng 05 tại thị trường nội địa không đổi với lý do nhu cầu suy yếu. Như vậy giá HRC tháng 05 của nhà sản xuất này vẫn ở mức 23.000-24.000 Đài Tệ/tấn (795-830 USD/tấn), còn CRC là 27.000-27.700 Đài Tệ/tấn.

Đối với chiến lược giá tháng 05 của nhà sản xuất thép không gỉ hàng đầu Đài Loan-Yusco, doanh nghiệp này quyết định hạ giá xuất khẩu HRC và CRC dòng 300-series khoảng 50-60 USD/tấn, còn giá nội địa giảm 2.000 Đài tệ/tấn (70 USD/tấn). Nhưng giá xuất khẩu dòng 400-series vẫn duy trì không đổi, còn nội địa được giảm 1.000 Đài tệ mỗi tấn.

HRC 304 2mm và  CRC 304 2B 2mm lần lượt có giá giao ngay về mức 113.000 Đài tệ/tấn (3.900 USD/tấnn) và 117.000 Đài tệ/tấn (4.035 USD/tấn).

Hàn Quốc

Trước áp lực từ chi phí nguyên liệu thô, các nhà sản xuất thép cán nguội và mạ màu rất muốn nâng giá thép thành phẩm nhằm cải thiện nguồn lợi nhuận, nhưng nhu cầu suy yếu ở cả thị trường nội địa lẫn xuất khẩu sẽ là lực cản lớn cho mục tiêu của các nhà sản xuất xứ  Hàn, thậm chí họ có thể buộc phải điều chỉnh giá chào xuất khẩu giảm thêm nữa.

Tuy nhiên thị trường Trung Quốc cũng không có hướng đi rỏ ràng nên các nhà thu mua cũng hạn chế số lượng nhập kho, nhất là khi mua hè sắp tời là thời điểm nhu cầu CRC xuống thấp hơn nữa. Chính điều này đã khiến các nhà sản xuất Hàn Quốc gặp phải nhiều phen lao đao trong tiến trình đẩy mạnh xuất khẩu.

Nhà sản xuất hàng đầu Hàn Quốc-Posco hiện đang chào thép tấm mạ điện giao từ tháng 06 đến tháng 08 sang Trung Quốc với giá 1.050 USD/tấn fob, còn giá chào bán CRC là 930-950 USD/tấn fob. Tuy nhiên có rất ít tính hiệu phản hồi từ khách hàng Trung Quốc vì cho rằng mức giá chào này quá cao.

Đối với thép mạ điện giao tháng 05 thì có giá chào bán ở khoảng 1.010 USD/tấn fob, nhưng giá giao dịch thấp hơn 30-60 USD/tấn, ở khoảng 950-980 USD/tấn fob.

Tuy nhiên, Posco quyết định nâng giá thép tấm đóng tàu sang Nhật thêm 180 USD mỗi tấn. Công ty này cũng đã thông báo nâng giá thép nội địa thêm 16,000 won/tấn, theo đó thép tấm đóng tàu tại thị trường nội địa có giá mới là lên đến 11.1 triệu won/tấn

Tuần này, Huyndai quyết định théo chân Posco nâng giá thép nội đị đối với các sản phẩm chính thêm khoảng 160.000 won (148 USD)/tấn nhằm bù đắp chi phí nguyên liệu thô.

Theo đó, các sản phẩm thép cán nóng của nhà sản xuất này sẽ được điều chỉnh tăng từ 900,000 won/tấn lên mức 1.06 triệu won/tấn, áp dụng từ tháng 5. Giá thép tấm dày sẽ tăng từ 950,000 won lên 1.11 triệu won.

Ấn Độ

Thị trường thép cuộn nhập khẩu của Ấn Độ có nhiều tín hiệu lạc quan hơn trong tuần này khi các thương nhân bắt đầu tham gia trở lại thị trường vì bị cám dỗ bởi các giá chào bán thấp từ Nga.

HRC cán lại 2mm SAE1006 từ nhà cung cấp Nga tuần này được các nhà cán lại Ấn Độ mua với giá 725-740 USD/tấn cfr. Tương tự, khoảng 20.000-30.000 tấn HRC SS400 3mm tiêu chuẩn thương phẩm từ Ukrainia được đặt mua với giá 705 USD/tấn cfr.

Dù vậy, thép cuộn của các nhà sản xuất Trung Quốc không được các nhà nhập khẩu “nhòm ngó” vì có giá chào khá cao, ở khoảng 760-770 USD/tấn cfr đối với loại HRC 3mm SS400 có chứa boron tiêu chuẩn thương phẩm. Trong đó khách hàng Ấn Độ chỉ muốn mua với giá khoảng 720 USD/tấn cfr mà thôi.

Tuy nhiên nếu thị trường suy yếu thì cả Trung Quốc lẫn Nga sẽ cắt giảm sản xuất chứ nhất định không chịu điều chỉnh giá giảm, thậm chí có thể nâng giá lên cao hơn.

Đối với thị trường xuất khẩu, tuần này vẫn chưa cải thiện và xu hướng trong những tuần tới cũng không mấy khả quan vì khách hàng từ nước ngoài không muốn mua thép trước kỳ nghỉ hè ở Châu Âu và lễ chay Ramada ở Trung Đông vào tháng 08 tới.

Trong 03-04 tuần qua, giá xuất khẩu HDG của Ấn Độ giảm 40-50 USD/tấn. Hiện tại giá chào xuất thép cuộn mềm 0.3mm phủ mạ 90g/sq m Zn giao cuối tháng 05 của Ấn Độ giảm xuống còn 965-980 USD/tấn fob từ mức giá 1.000-1.010 USD/tấn fob trong tháng 03.

Hầu hết các giao dịch chỉ đến từ người tiêu dùng trực tiếp chứ không phải thương nhân. Hơn nữa, khách hàng đang có xu hướng trở lại dùng hàng nội vì có giá rẻ hơn.

Mức giá 920 USD/tấn cfr, đã bao gồm phí vận chuyển 55 USD/tấn, đối  với thép cuộn mềm 0.8-1mm phủ mạ 140g/sq m của Ấn Độ không được khách hàng Bungari chấp nhận vì giá chào từ Thổ Nhĩ Kỳ rẻ hơn 30-40 USD/tấn so với mức trên.

Bên cạnh đó, giá thép nội địa tăng cao cũng hỗ trợ tích cực cho giá phế liệu Ấn Độ. Giá tham khảo hàng tuần mới nhất từ TSI cho thấy giá phế liệu của nước này tăng 1% so với các giao dịch trước đó.

Giá tham khảo phế tháo dỡ từ container nhập qua cảng Nhava Sheva, Ấn Độ tăng 6 USD/tấn lên 485 USD/tấn cfr.

Châu Âu

Bước qua tuần này, thị trường thép Châu Âu đã có nhiều thay đổi tích cực hơn cả về nhu cầu lẫn giá bán.

Sau khi giá thép cuộn được điều chỉnh giảm 60-100 EUR/tấn hơn 02 tháng qua, niềm tin từ người tiêu dùng trực tiếp, thương nhân cũng như các nhà dự trữ đều cải thiện vì hầu hết cho rằng giá đã chạm đáy, hơn nữa hạn chế gom hàng khi giá trượt dốc đã khiến tồn thép xuống thấp. Với những nguyên nhân đó, tuần này họ đã bắt đầu trở lại thị trường để tái bổ sung hàng tồn.

Thậm chí giới trong ngành tin rằng nếu đồng EUR ngừng tăng giá so với đồng bạc xanh Mỹ thì có thể giá sẽ có cơ hội để phục hồi trở lại.

HRC nam Âu hiện có giá xuất xưởng cơ bản là 550-580 EUR/tấn, CRC có giá 630-650 EUR/tấn và 625-635 USD/tấn là giá xuất xưởng cơ bản của HDG

Thổ Nhĩ Kỳ hiện đang là đối thủ cạnh tranh mạnh nhất của các nhà sản xuất nam Âu với giá bán HRC là 525 EUR/tấn cfr.

Tuy vậy, sản phẩm HDG vẫn chịu nhiều áp lực từ nguồn cung quá mức. Italia hiện đang bán loại thép này với giá xuất xưởng là 625-635 EUR/tấn (914-929 USD/tấn), thấp hơn 10 EUR/tấn so với giá thép cuộn cán nguội.

Trước tình trạng dư thừa nguồn cung HDG nhập khẩu cũng không thể hút lực mua tại thị trường khu vực này. Giá chào HDG 0.6mm từ nhà Trung Quốc hiện có giá khoảng 630-650 EUR.tấn cfr. Thổ Nhĩ Kỳ cũng mất hẳn sức cạnh tranh với Italy và Tây Ban Nha đối với mặt hàng này.

Đối với thị trường thép cây và cuộn trơn, do được hỗ trợ bởi đà tăng giá phế nên các loại thép này cũng đã cải thiện chút ít về mặt giá cả. Giá thép cây xuất xưởng đang đứng ở mức 500 EUR/tấn (733 USD/tấn), còn giá cuộn trơn là 550-570 EUR/tấn. Những bất ổn chính trị ở Bắc Phi khiến thị trường xuất khẩu thép cây khu vực này chậm lại, tuy nhiên Algeria đã bắt đầu tái tham gia thị trường. Giá thép cây từ Hy Lạp, Italy và Tây Ban Nha sang khu vực này ở khoảng 510 EUR/tấn fob, còn giá cuộn trơn kéo lưới thì ở mức 530-540 EUR/tấn fob.

Nhưng điều khác biệt là thị trường thép hình nam Âu chưa có dấu hiệu khởi sắc. Nhu cầu suy yếu khiến cho các nhà sản xuất phải vật lộn với chiến dịch nâng giá bán của mình.

Mặc dù Tây Ban Nha thành công với mức tăng 50 EUR/tấn cho thép hình loại một, và hiện chểm chệ với giá bán 650 EUR/tấn, đã bao gồm cước phí vận chuyển, nhưng xem ra mức điều chỉnh tăng 30 EUR/tấn của Italia khó mà hoàn thành, mức giá giao dịch hiện tại là 630-640 EUR/tấn xuất xưởng.

Tuy nhiên các nhà sản xuất cũng như giới thương nhân rất tự tin về triển vọng thị trường tháng 05 vì cho rằng tồn thép xuống thấp nên họ có thể nâng giá bán trong tháng này.

Vấn đề về tỷ giá và nhu cầu đang là mối quan tâm hàng đầu của các nhà sản xuất thép nam Âu, nhưng chịu nhiều áp lực hơn cả vẫn là thị trường thép tấm thương phẩm.

Các nhà sản xuất Italia và Tây Ban Nha đang đứng trước một trong hai lựa chọn, hoặc là cắt giảm sản xuất, hoặc là rút lui khỏi thị trường nhằm bảo vệ giá.

Thép tấm S235 từ Ấn Độ và Trung Quốc hiện đang được chào bán sang khu vực này với giá 620-630 EUR/tấn (910-924USD/tấn cfr), còn giá chào từ Ukraina là 625-640 EUR/tấn cfr.

Trong khi đó, các nhà sản xuất tây bắc Âu có sự lựa chọn thông minh hơn đó là tập trung vào các sản phẩm chất lượng cao, vì loại hàng này ít chịu sự cạnh tranh trên thị trường.

Triển vọng thị trường không có gì mới khi bước sang tuần nhưng khả năng tháng 06 sẽ là thời điểm xuất hiện tín hiệu vui trở lại bì các nhà dự trữ cần một lượng thép lớn để tái bổ sung hàng tồn trước khi các nhà sản xuất bắt đầu công tác bảo trì máy móc vào tháng 08.

Thổ Nhĩ Kỳ

Có thể nói một trong những thị trường thép có khả năng phục hồi mạnh nhất Châu Âu trong tuần này là Thổ Nhĩ Kỳ. Sau nhiều tuần đánh mất niềm tin thị trường vì sự bấp bênh về nhu cầu và giá bán không ổn định, thị trường thép Thổ Nhĩ Kỳ tuần này đã khôi phục lại vị trí của mình. Nhu cầu tăng đáng kể là lý do để các nhà sản xuất tự tin nâng giá bán nội địa.

Thép cuộn kéo lưới hiện đã phục hồi lại mức 700-710 USD/tấn từ mức giá trước đó là 685 USD/tấn, còn đối với loại cuộn trơn kéo dây thì vẫn ổn định mức 730 USD/tấn, và khả năng sẽ duy trì ổn định trong vài tuần tới.

HRC giao tháng 05 và tháng 06 được các nhà sản xuất nội địa bán với giá 700-730 USD/tấn, nhưng lực mua khá mạnh nên khả năng giá tháng 07 có thể được điều chỉnh tăng thêm 20 USD/tấn.

Thị trường xuất khẩu HRC cải thiện rất đáng kể sau khi lực mua từ Mỹ và Châu Âu tăng mạnh trong 02 tuần giá. Giá HRC giao tháng 06 xuất qua các khu vực này có giá là HRC giao tháng 05 và tháng 06 được các nhà sản xuất nội địa bán với giá 700-730 USD/tấn.

Nhưng xu hướng giá trong ngắn hạn chưa rỏ ràng vì nhiều yếu tố tác động lên xuống đan xen nhau. Có thể giá tăng vì chi phí nguyên liệu thô vẫn còn là gánh nặng, nhưng nhu cầu từ Mỹ và Châu Âu đang trên đà hướng xuống có thể sẽ cản trở việc tăng giá xuất khẩu HRC của Thổ Nhĩ Kỳ mà buộc phải giữ nguyên giá như hiện tại hoặc thậm chí có thể giảm giá bán.

Tuần này, các nhà sản xuất thép Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục đặt mua phế từ nước ngoài, giá cũng tăng nhẹ so với trước đó.

Các lô hàng mới nhất được đặt mua từ Mỹ. Trong đó, 40.000 tấn gồm các loại HMS 1&2 80:20 và phế vụn có giá 445-450 USD/tấn cfr, còn một lô khác được bán với giá 447-452 USD/tấn, cao hơn 2 USD/tấn so với các giao dịch trước đó.

Phế A3 từ CIS tăng lên 440 USD/tấn cfr, cao hơn 10 USD/tấn so với tuần trước đó.

Giá phế tại thị trường nội địa hiện đang ở mức 580-720 TL/tấn (382-475 USD/tấn), cao hơn 20 TL/tấn (13 USD/tấn) so với tuần thứ 02 của tháng 04.

CIS

Thị trường xuất khẩu phôi tấm của CIS vẫn còn trấm lắng trong tuần này và dường như giá đang dần chạm xuống đáy thấp. Giá phôi từ Nga sang Biển Đen trong tháng 04 đã xuống mức thấp nhất 650 USD/tấn fob, trong khi mức giá tháng 03 là 710-730 USD/tấn. Phôi Nga chào sang Đông Nan Á tuần này có giá 685 USD/tấn cfr.

Tuy nhiên các nhà cung cấp CIS tỏ ra lạc quan với thị trường trong 02 tháng tới vì cho rằng với các dự báo giá thép cuộn phục hồi trong tháng 05 hoặc tháng 06 thì chắc chắn theo đó phôi cũng sẽ ổn định hoặc chỉ giảm nhẹ mà thôi.

Hơn nữa, các nhà sản xuất CIS dự định sẽ bảo trì máy móc trong mùa hè tới nên chắc chắn nguồn cung sẽ hạn chế, đồng thời một số nhà nhập khẩu lớn của Nga như Iran bắt đầu bước vào năm mới nên sẽ tăng cường gom hàng trở lại.