Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Tổng quan thép thế giới tuần 44/2017

 Châu Âu

Thị trường thép thanh thương phẩm EU vẫn suy yếu do giá mới chưa được người mua chấp nhận trong khi tiêu thụ thấp. Giá chào bán từ Ý ở mức 150-160 Euro/tấn giá xưởng (560-570 Euro/tấn đã tính các khoản phí) nhưng giá giao dịch chỉ tầm 120-140 Euro/tấn,

Giá chào thép cây tại Pháp vẫn cao hơn 270 Euro/tấn trong khi giá tại Benelux được báo cáo ở mức 280-290 Euro/tấn nhưng tiêu thụ nhìn chung chậm trong tháng thấp điểm. Giá thép hình loại 1 tại châu Âu khoảng 570-580 Euro/tấn mặc dù các giao dịch nghe ở mức 560 Euro/tấn.

Trong bối cảnh EU áp thuế chống bán phá giá cho HRC nhập khẩu dẫn tới giá nhập khẩu giảm, chênh lệch giá nội địa Bắc Âu và nhập khẩu đã rút ngắn nhanh chóng. Mức chênh lệch hiện tại là 10 Euro/tấn cho thấy hàng nhập khẩu không thu hút, có thể thúc đẩy hy vọng tăng giá trong khu vực.

Người mua trong khu vực vẫn chờ đợi với giá chào từ các nhà máy cấp 1 Tây Âu là 560 Euro/tấn cho các đơn hàng giao Q4/2017-Q1/2018. Giá giao dịch tầm 540 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr cho các nhà máy cấp 1 à 520-530 Euro/tấn cho các nhà máy cấp 2.

Mỹ

Thị trường thép cây Midwest tiếp tục ổn định do không có nhiều giá chào nhập khẩu dựa vào điều tra 232 của Chính phủ. Giá phế tháng này ổn định nên các thông báo tăng giá thêm 20 USD/tấn của Gerdau và CMC hồi cuối tháng 9 không được các nhà máy khác hưởng ứng. Tuy nhiên tiêu thụ dự báo đang cải thiện. Mùa đôngg đang tới nên mọi người đang tranh thủ đặt hàng trước khi thời tiết trở nên tệ hơn.

Thị trường tấm mỏng Mỹ cũng ổn định dù các đơn hàng lớn chốt giá thấp. Giá chào các nhà máy chủ yếu 620 USD/tấn nhưng có giá dưới 600 USD/tấn cho các đơn hàng lớn. CRC chào bán ở mức 810-820 USD/tấn nhưng giá dưới 800 USD/tấn tiếp tục được nghe trong tuần này.

Chênh lệch giá HDG nhập khẩu và nội địa Mỹ tiếp tục rút ngắn với nhiều người mua tỏ ra thờ ơ với hàng nhập khẩu. Nếu đã tính phí vận chuyển thì chào giá nhập khẩu chỉ thấp hơn giá trong nước 10 USD/tấn. Mức này không đủ để thu hút người mua nhập hàng nước ngoài về. Giá chào trong nước tầm 810-820 USD/tấn.

Trong khi đó, giá tầm dày lại suy yếu và có lúc xuống thấp hơn cả HRC. Giá giảm do các nhà máy cạnh tranh đơn hàng trong bối cảnh thời gian giao hàng rút ngắn. Khả năng tăng giá từ các nhà máy cũng tiêu tan.

Giá tấm dày đã cộng phí giao hàng tầm 625-650 USD/tấn. Dự báo các giao dịch cuối năm suy yếu dưới mức trung bình.

Thổ Nhĩ Kỳ

Đà tăng giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ suy yếu trở lại trong tuần này. Thị trường đang tiến vào mùa tiêu thụ thấp điểm ở cả trong nước và xuất khẩu nên khó để tăng giá dù giá phế tăng nhẹ.

Chào giá ở mức 530 USD/tấn FOB Marmara/Izmir, tăng 5-10 USD/tấn so với tuần trước nhưng các thương nhân nhận thấy không có lý do gì để có thể tăng giá thép.

Các nhà máy thép dây đang cố gắng tăng giá trước sức ép tiêu thụ thấp tại các thị trường xuất khẩu truyền thống. Giá chào thép dây xuất khẩu ở mức 545-550 USD/tấn FOB tùy vào khối lượng đơn hàng và nơi đến trong khi đối thủ chào giá thấp hơn ít nhất 10 USD/tấn. Trong khi đó, giá niêm yết thép dây nội địa ổn định ở mức 555-565 USD/tấn xuất xưởng kể từ tuần trước tùy vào khu vực.

Trong khi đó, giá nhập khẩu cạnh tranh từ CIS tiếp tục gây áp lực cho thị trường HRC nội địa và xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ. Giá chào từ CIS là 555-565 USD/tấn CFR trong mấy tuần gần đây, với vài nhà máy cán lại và ống thép mua ở mức này.

Các giao dịch HRC nội địa gần đây ở Thổ Nhĩ Kỳ giảm còn 570-575 USD/tấn xuất xưởng so với giá chào 580-590 USD/tấn xuất xưởng. Một nhà tiêu thụ cuối dự báo giá niêm yết HRC Thổ Nhĩ Kỳ có thể xuống mức thấp 540-550 USD/tấn trong mấy tuần tới nếu các nhà máy CIS tiếp tục chào bán cạnh tranh. Trong khi đó, giá xuất khẩu giảm còn 560-565 USD/tấn FOB cho các đơn hàng lớn do giá chào mua từ Châu Âu ở mức thấp 540-545 USD/tấn FOB.

Vài nhà máy thép mạ cũng giảm giá HDG xuống thêm 20-30 USD/tấn do giá HRC dự báo tiếp tục suy yếu.Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ chào bán HDG 0.5mm tại mức 710-750 USD/tấn xuất xưởng. Vài nhà máy chiết khấu 10-20 USD/tấn cho các đơn hàng lớn.

CIS

Các nhà máy phôi thanh CIS đã bắt đầu giảm giá để tăng tính cạnh tranh so với phôi thanh Iran và Braxin. Phôi thanh Iran và Braxin có sẵn ở mức 450-460 USD/tấn FOB, và một đơn hàng lớn 40.000-50.000 tấn nghe đồn chốt ở mức 475 USD/tấn CIF tới Thổ Nhĩ Kỳ.

Một nhà máy Nga đang chào tại mức 465 USD/tấn FOB Biển Đen. Nhà máy này cho biết không thể bán được giá 470 USD/tấn FOB trong tuần này. Thị trường đang có xu hướng suy yếu nhưng chưa có giao dịch nào chốt dưới 470-475 USD/tấn FOB.

Giá xuất khẩu HRC Nga giảm 10 USD/tấn xuống còn 530 USD/tấn FOB Biển Đen. Đơn hàng mới nhất từ Severstal chốt ở mức 540 USD/tấn FOB St Petersburg nhưng một nhà máy khác chào bán giá 530 USD/tấn FOB Biển Đen tới Lebanon, Tunisia và Ai Cập trong khi có tin giá chào 525 USD/tấn FOB tới Thổ Nhĩ Kỳ.

Các nhà máy dường như còn nhiều thép tháng 11 chưa bán nên mới giảm giá. Vấn đề là niềm tin thị trường quá lạc quan về nhu cầu tiêu thụ trong nước và để quá trễ để có thể xuất khẩu nên bây giờ còn nhiều hàng tồn. Việc liên tục cắt giảm giá làm mọi người sợ hãi và không ai muốn mua.

Tại thị trường cán nguội, CRC Ukraina được chào ở mức 580 USD/tấn FOB Biển Đen tới Bắc Phi. Các nguồn tin cho biết sẽ còn đơn hàng chốt ở mức giá 575-580 USD/tấn FOB Biển Đen trong khi giá chào phôi phiến là 480 USD/tấn FOB.

Nhật Bản

Tồn kho tấm dày, HRC và CRC nhập khẩu tại các cảng Tokyo và Osaka Nhật Bản giảm 16.000 tấn (10.7%) vào cuối tháng 9 so với cuối tháng 8 xuống còn 140.000 tấn. Tồn kho cuối tháng 9 giảm 17.2% hoặc 29.000 tấn so với cùng kỳ năm ngoái.

Tồn kho giảm chủ yếu nhờ hàng nhập khẩu giảm. Dự báo khối lượng nhập khẩu những tháng tới cũng giảm do các nhà máy này đang hạn chế xuất khẩu để tập trung vào thị trường nội địa.

Với xu hướng tiêu thụ thép dẹt tăng trong mùa thu, các thương nhân ở phía tây đã nhanh chóng giải phóng tồn kho. HRC tồn kho ở cảng Osaka ở mức thấp nhất mấy năm nay vào cuối tháng 9, cho thấy cung-cầu đang rất thắt chặt.

Các nhà phân phối đang tìm kiếm hàng nhập khẩu để bổ sung đủ dự trữ nhưng tình hình đang khó khăn hơn. Cân bằng cung-cầu trên thị trường giao ngay ngày càng thắt chặt trong khi giá cả sẽ tăng nữa. Giá tấm cán nóng 1,1219x438 mm 1.6mm ở Tokyo ở mức 77.000-79.000 Yên/tấn (677-639 USD/tấn) trong khi CRC 914x1,828 mm 1.0mm ở mức 82.000-84.000 Yên/tấn (722-739 USD/tấn), cùng tăng 4.000 Yên/tấn so với tháng trước.

Ấn Độ

Thị trường HRC Ấn Độ vẫn im ắng sau lễ do các thương nhân không nôn nóng quay trở lại thị trường. Nhu cầu tiêu thụ dường như cũng trầm lắng trong tháng 11 do hoạt động tái thu mua chậm chạp.
Giá HRC IS 2062 2.0mm giao tới Mumbai ổn định ở mức 37.500-38.500 Rupees/tấn (579-594 USD/tấn). Phần lớn các nhà tiêu thụ cuối như sản xuất xe hơi, lĩnh vực sản xuất máy móc nói chung và xây dựng đều tiêu thụ chậm chạp.

Nhu cầu tiêu thụ tấm lợp mái có thể tăng trong tháng 11 do các công nhân xây dựng làm việc trở lại sau lễ (tháng 9-tháng 10. Điều này có thể giúp tăng doanh số bán HRC tới mức nào đó. Tuy nhiên, tiêu thụ từ lĩnh vực xe hơi vẫn yếu do họ cố gắng giải phóng tồn kho trước cuối năm.