Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Tổng hợp thị trường TQ tháng 3/2024

THỊ TRƯỜNG THÉP XÂY DỰNG

Giá thép tiếp tục giảm trong tháng 3 dù vào mùa cao điểm truyền thống do nhu cầu giải phóng thấp hơn dự kiến và hỗ trợ từ phía nguyên liệu thô đã suy yếu.

Than cốc đã bắt đầu đợt giảm giá thứ bảy. Rất khó để tiêu hóa lượng hàng tồn kho khổng lồ tích lũy trong Lễ hội mùa xuân. Do nhiều yếu tố như vậy, giá giao ngay khó tăng, xu hướng thị trường không tốt. Không có sự thúc đẩy tích cực nào cho thị trường vào tháng 3.

Tính đến ngày  29/3, HRB400φ16 tại thị trường Thượng Hải được báo giá ở mức 3,800 NDT/tấn, giảm 10.827% so với tháng 2.

Trong khi đó, giá cuộn dây HPB300φ6 cao cấp tại thị trường Thượng Hải báo cáo ở mức 4,458.89 NDT/tấn, giảm 9.17% so với tháng trước.

Theo thông tin do Hiệp hội Công nghiệp Sắt thép Trung Quốc công bố, vào cuối tháng 3, lượng tồn kho cốt thép là 6.66 triệu tấn, giảm 320,000 tấn so với tháng trước,tương đương 4.6%.Tồn kho dây thép là 1.67 triệu tấn, giảm 90,000 tấn so với tháng trước, giảm 5.1%.

Dữ liệu mới nhất từ ​​Cục Thống kê Quốc gia cho thấy từ tháng 1 đến tháng 2/2024, sản lượng thép thanh của Trung Quốc là 32.099 triệu tấn, giảm 0.3% so với cùng kỳ năm ngoái. Từ tháng 1 đến tháng 2, sản lượng dây thép (dây thép) của Trung Quốc là 21.143 triệu tấn, giảm 1.5% so với cùng kỳ năm ngoái.

Theo tính toán của mô hình dữ liệu, mức tiêu thụ thép xây dựng hạ nguồn trong tháng 3 dự kiến ​​là 33.395 triệu tấn, giảm 15.37% so với cùng kỳ năm ngoái. Tháng 2 là dịp nghỉ lễ hội mùa xuân, các công trường xây dựng và thị trường lần lượt nghỉ lễ, bị ảnh hưởng bởi các vấn đề về vốn, nhu cầu hạ nguồn tăng lên. Việc nối lại công việc chậm, hiệu suất nhu cầu thấp hơn dự kiến ​​và những kỳ vọng mạnh mẽ trong tháng 3 đã bị bóp méo, khiến giá thị trường bị ảnh hưởng. Nhìn vào tháng 4, với sự gia tăng của các dự án xây dựng mới, nhu cầu tổng thể có thể tiếp tục tăng. Tuy nhiên, trong bối cảnh nhu cầu về cơ sở hạ tầng và bất động sản yếu vào năm 2024, tính bền vững của việc giải phóng nhu cầu tổng thể vẫn còn nhiều nghi vấn và giá cả tháng 4 tới dự kiến không thay đổi nhiều.

THỊ TRƯỜNG CUỘN CÁN NÓNG

Giá thép cuộn nóng dao động rất lớn trong khoảng từ 3,750 đến 4,000 NDT/tấn trong tháng 3, đã giảm ở một mức độ nhất định so với tháng 2. Thị trường nói chung gần đây đang hoạt động không ổn định và yếu kém. Với nguồn cung tiếp tục cao, chi phí giảm nhẹ và nhu cầu tiếp tục được giải phóng một cách hiệu quả, dự kiến ​​thị trường thép cuộn cán nóng có thể phục hồi ở một mức nhất định mức độ vào tháng 4. Tổng sản lượng của các nhà máy thép mẫu cuộn cán nóng trong tháng 3 là 12.7112 triệu tấn, giá trị tồn kho cuối cùng là 3.4127 triệu tấn.

Tính đến ngày 1/4, về mặt chỉ số, chỉ số thép cuộn nóng trong nước là 132.40, giảm 7.07% so với tháng 2 và giảm 15.38% so với cùng kỳ năm ngoái. Về giá cả, giá trung bình của thép cuộn cán nóng 4.75mm tại 24 thành phố lớn trên cả nước là 3,760 NDT/tấn, với mức giảm lũy kế hàng tháng là 278 NDT/tấn. Về tồn kho, tính đến ngày 1/4, tồn kho thép cuộn cán nóng trên toàn xã hội là 3.4127 triệu tấn, tăng 996,00 tấn so với cùng kỳ năm ngoái.

Tổng cộng có 54 trong số 64 dây chuyền sản xuất của 37 nhà sản xuất thép cuộn cán nóng được giám sát vào ngày 27/3/2024 đã thực sự đi vào hoạt động, với tỷ lệ hoạt động chung là 84.38%.

Tính đến ngày 2/4, giá xuất khẩu nội địa tại cảng Thiên Tân cao hơn giá trong nước 309 NDT/tấn, khoảng 42.73 USD/tấn, giảm 11.98 USD/tấn so với tháng trước. Giá xuất khẩu giảm nhiều hơn giá trong nước và lợi nhuận xuất khẩu thấp hơn lợi nhuận trong nước và đơn hàng xuất khẩu trở nên yếu hơn.

Lượng xuất khẩu thép cuộn cán nóng từ tháng 1 đến tháng 2 là 4.604 triệu tấn, tăng 7.07% so với tháng trước; lượng nhập khẩu thép cuộn cán nóng từ tháng 1 đến tháng 2 là 201,000 tấn, tăng 6.03% so với tháng trước. Theo quan điểm hiện tại, khối lượng xuất khẩu tiếp tục duy trì ở mức cao trong tháng 1 và tháng 2, và dự kiến ​​sẽ tiếp tục duy trì như vậy trong quý đầu tiên.

Tính đến ngày 2/4, tồn kho thép cuộn cán nóng là 3.4127 triệu tấn.

Trong tháng 3, chỉ số PMI trong lĩnh vực sản xuất là 50.8%, tăng 1.7 điểm phần trăm so với tháng trước, cao hơn điểm tới hạn, cho thấy sự bùng nổ sản xuất đang gia tăng. Xét về quy mô doanh nghiệp, PMI của các doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ lần lượt là 51.1%, 50.6% và 50.3%, tăng 0.7, 1.5 và 3.9 điểm phần trăm so với tháng trước, tất cả đều trên điểm tới hạn. Xét từ góc độ các chỉ số phụ, trong số 5 chỉ số phụ tạo nên PMI sản xuất, chỉ số sản xuất, chỉ số đơn đặt hàng mới và chỉ số thời gian giao hàng của nhà cung cấp đều cao hơn điểm tới hạn, trong khi chỉ số tồn kho nguyên liệu thô và chỉ số nhân viên thấp hơn điểm tới hạn. Chỉ số sản xuất đạt 52.2%, tăng 2,4 điểm phần trăm so với tháng trước, cho thấy hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp sản xuất đã tăng tốc.

Chỉ số đơn đặt hàng mới là 53.0%, tăng 4.0 điểm phần trăm so với tháng trước, cho thấy nhu cầu thị trường sản xuất đã phục hồi. Chỉ số tồn kho nguyên liệu thô là 48.1%, tăng 0.7 điểm phần trăm so với tháng trước, cho thấy mức giảm tồn kho nguyên liệu thô chính trong ngành sản xuất đã thu hẹp. Chỉ số việc làm là 48.1%, tăng 0.6 điểm phần trăm so với tháng trước, cho thấy môi trường việc làm của các công ty sản xuất đã được cải thiện. Chỉ số thời gian giao hàng của nhà cung cấp là 50.6%, tăng 1.8 điểm phần trăm so với tháng trước, cho thấy thời gian giao hàng của các nhà cung cấp nguyên liệu sản xuất đã tăng nhanh.

Tính đến ngày 2/4, chi phí sản xuất thép cuộn cán nóng là 3,862.98 NDT/tấn, giảm 363.36 NDT/tấn so với tháng trước. Mức lỗ cán nóng là 150.62 NDT/tấn. Hiện tại, hầu hết các nhà sản xuất thép cuộn nóng vẫn đang ở trạng thái cận biên, thấp hơn khoảng 137.86 NDT/tấn so với mức lợi nhuận của các nhà máy thép năm ngoái. Hiện tại, giá nguyên liệu thô đang giảm yếu, nhưng các công ty sản xuất vẫn đang sử dụng hàng tồn kho nguyên liệu giá cao. Mặc dù tổn thất ngắn hạn đã giảm bớt nhưng vẫn nằm trong phạm vi biên.

THỊ TRƯỜNG CUỘN CÁN NGUỘI

Giá thị trường thép cuộn cán nguội giảm mạnh trong tháng 3, khoảng 400-600 NDT/tấn. Hàng tồn kho xã hội vẫn cao và nguồn cung vẫn cao. Trong số đó, mức giảm giá tại thị trường Hà Nam là nghiêm trọng nhất và mức giảm giá thu hẹp dần về cuối tháng. Giữa tháng, khi sản lượng của các công ty thép trong nước giảm ít hơn dự kiến, giá dần dần được nâng lên. Tuy nhiên, do nhu cầu không đủ nên đà tăng giá không còn duy trì được và giá lại giảm.

Tồn kho xã hội của cuộn cán nguội vẫn ở mức cao trong tháng 3 và tốc độ giảm tồn kho chậm. Việc mua sắm thiết bị đầu cuối không thể tăng về số lượng, hoạt động tại công trường xây dựng thấp hơn so với những năm trước và nhu cầu giải phóng thấp hơn nhiều so với nguồn cung thị trường. Mâu thuẫn thị trường vẫn chưa giảm bớt đáng kể, áp lực tồn kho của các công ty thép và thương mại thép vẫn còn cao.

Về nhập khẩu cán nguội, lượng nhập khẩu trong tháng 2/2024 là 5,600 tấn, giảm 22.44% so với cùng kỳ năm ngoái và giảm 28.63% so với tháng trước.

Về xuất khẩu cán nguội, lượng xuất khẩu cán nguội trong tháng 2/2024 là 29,700 tấn, tăng 13.85% so với cùng kỳ năm ngoái và giảm 37.52% so với tháng trước.