Tăng trưởng sản lượng thép thành phẩm Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục chậm lại
Sản lượng thép thành phẩm của Thổ Nhĩ Kỳ đã tiếp tục chậm lại trong những tháng gần đây cùng với mức tiêu thụ thép, trong bối cảnh bất ổn gia tăng sau cuộc đảo chính quân sự thất bại và biến động tỷ giá hối đoái mạnh mẽ hơn, theo Hiệp hội Các nhà Sản xuất Sắt thép Thổ Nhĩ Kỳ (TCUD).
Tổng mức tiêu thụ thép của nước này đã tăng 3,9% lên mức 20.83 triệu tấn trong 8 tháng đầu năm nay so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, mức tăng này thấp hơn đáng kể so với mức tăng 6,3% trong tiêu thụ ghi nhận trong nửa đầu năm nay, do nhu cầu tiêu thụ thép dài và thép dẹt chậm lại đáng kể trong tháng 07 và tháng 08, số liệu cho thấy.
Mặc dù chậm lại trong những tháng gần đây, tiêu thụ thép dẹt của Thổ Nhĩ Kỳ đạt 11,5 triệu tấn trong 8 tháng đầu năm, tăng 3% so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi tiêu thụ thép dài ở Thổ Nhĩ Kỳ tăng 4,8% lên mức 12.12 triệu tấn trong cùng kỳ.
Sự gia tăng đáng kể trong sản lượng thép thành phẩm của Thổ Nhĩ Kỳ đã thấy trong những tháng đầu năm cũng đã chậm lại phù hợp với sức tiêu thụ trong những tháng gần đây. Sản lượng thép thành phẩm của Thổ Nhĩ Kỳ chỉ tăng 2% so với năm cùng kỳ năm ngoái lên mức 25,1 triệu tấn trong tháng 08, trong khi sản lượng thép thô tăng 4,7% lên mức 22 triệu tấn, số liệu cho thấy. Thép thô sản xuất bởi nhà máy EAF tăng 4,6% so với cùng kỳ năm ngoái lên mức đ14.33 triệu tấn trong tháng 08, trong khi sản xuất thông qua bộ chuyển đổi oxy đã tăng 4,9% so với cùng kỳ năm ngoái lên mức 7.66 triệu tấn.
Sản xuất thép dài của Thổ Nhĩ Kỳ tăng 2,7% lên tới 18 triệu tấn, trong khi sản lượng thép dẹt tăng nhẹ 0,4% lên mức 7,1 triệu tấn trong 8 tháng đầu năm, dữ liệu mới nhất cho thấy.
Nhà sản xuất thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tăng giá chào
Chào giá xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tăng hôm thứ Hai với doanh số bán cao hơn vào Ai Cập cách đây 2 tuần, và đến Anh hôm thứ Sáu tuần trước, bù đắp cho hoạt động kinh doanh thiếu hụt ở UAE và Mỹ.
Đồng lira, đạt một mức thấp mới so với đô la hôm thứ Hai, đã cho phép các nhà máy tănggái chào mà không bị mất khả năng cạnh tranh xuất khẩu.
"Đã có rất nhiều doanh số bán từ Thổ Nhĩ Kỳ trong hai tuần qua," một người mua Ai Cập, người đặt giá trong khoảng 395-400usd/tấn trên CFR khối lượng thực tế, hay khoảng 380- 385usd/tấn FOB, cho biết.
Giá bán đến Ai Cập có xu hướng cao hơn, do bị sai lệch bởi các điều khoản thanh toán.
Các nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ dường như đang sử dụng các giá bán hàng là cơ sở hôm thứ Hai, với giá chào nghe nói ở mức 380-390usd/tấn FOB từ một số người bán thép cây.
Giá bán hàng khác đã được nghe nói cuối tuần qua đến Anh từ một nhà sản xuất ở Izmir. Đơn hàng đặt mua 25.000 tấn đã được nghe nói lần đầu tiên trong tuần trước, nhưng theo một nhà sản xuất tại Thổ Nhĩ Kỳ, thêm 25.000 tấn nữa đã được đặt mua ở mức giá tương tự là 370usd/tấn FOB. Các chi tiết giao dịch hơn nữa, chẳng hạn như khi nào hàng hóa được giao, không rõ ràng, khiến cho giao dịch này không được tính vào định giá sau khi chào giá tăng hôm hôm thứ Hai.
Các nhà cung cấp phế ferrous cho các nhà máy đã nói về sự gia tăng giá hôm thứ Hai, đưa ra chào giá tăng 5-10usd/tấn so với cuối tuần qua.
Kinh doanh ờ UAE đã rất yên ắng trong hai tháng qua, do giá trong nước khiến cho chào giá của Thổ Nhĩ Kỳ không cạnh tranh. Một cuộc điều tra chống bán phá giá tại Mỹ với thép cây Thổ Nhĩ Kỳ cũng đã cản trở nhu cầu tiêu thụ ở Mỹ.
Platts định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 375usd/tấn FOB thứ Hai, tăng 2,50usd/tấn, từ thứ Sáu tuần trước.
Giá thép cây Midwest Mỹ giảm
Giá thép cây tại miền Trung Tây Mỹ tiếp tục giảm do nhu cầu tiêu thụ vẫn còn tương đối đi ngang trong khu vực, nguồn tin cho biết hôm thứ Hai.
Platts hôm thứ Hai hạ định giá thép cây Trung Tây Mỹ hàng tuần còn 470-485usd/tấn ngắn xuất xưởng, giảm từ mức 480-495usd/tấn ngắn xuất xưởng.
Mặc dù chào giá thấp từ các nhà máy trong nước, xu hướng giảm này đã không có nhiều ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu thụ, một nhà phân phối cho biết, và nói thêm rằng ông dự đoán thu mua vẫn là hoạt động giao ngay từ đây cho đến hết năm nay, bất kể giá cả như thế nào.
Một nhà phân phối khác trong khu vực cho biết trong khi nhu cầu tiêu thụ chậm chạp suốt tháng 09, ông đang nhìn thấy một số dự án quay lại do thời tiết đã thuận lợi hơn ở miền Trung Tây trong suốt nửa đầu tháng 10. Cùng với điều kiện thời tiết xấu, khách hàng cũng đã trải qua giai đoạn tháng 09 không tham gia thị trường để chờ đợi liệu xem họ có thể nhận được giá thấp hơn hay không, ông nói.
"Chúng ta đang ở thời điểm của năm nay mà mọi người cần phải thực hiện công việc vào cuối năm và không đủ khả năng để tiếp tục chờ đợi nữa," ông nói.
Sau thông báo tuần trước của Bộ Thương mại Mỹ cho biết sẽ bắt đầu mở một cuộc điều tra thuế chống phá giá lên thép câ nhập khẩu y từ Nhật Bản, Đài Loan và Thổ Nhĩ Kỳ và cuộc điều tra thuế đối kháng lên hàng nhập khẩu thép cây từ Thổ Nhĩ Kỳ, nguồn tin cho biết các kết quả sơ bộ có thể sẽ làm trầm trọng hơn nhu cầu tiêu thụ chậm chạp theo mùa trong thị trường thép cây. Ủy ban Thương mại quốc tế sẽ đưa ra phán quyết sơ bộ vào ngày 04/11.
"Chúng tôi đã nhìn thấy Nhật Bản và Đài Loan rút khỏi thị trường, do đó, rất đáng quan tâm để xem những gì sẽ xảy ra với Thổ Nhĩ Kỳ," nhà phân phối thứ hai nói.
Chào giá xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tăng hôm thứ Hai với doanh số bán cao hơn vào Ai Cập do đơn hàng ở hai thị trường xuất khẩu chính, Mỹ và UAE, đã chậm lại. Giá báo mới nhất được chốt từ Thổ Nhĩ Kỳ sang Mỹ nghe nói ở mức 385usd/tấn CFR (354usd/tấn ngắn CIF).
Platts hôm thứ Hai duy trì định giá thép cây nhập khẩu vào Mỹ ngày ở mức 349-354usd/tấn ngắn CIF Houston, do không có giao dịch mới được nghe nói chốt ở mức cao hơn.
Phế nội địa Thổ Nhĩ Kỳ cải thiện cùng với phế nhập khẩu
Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã nâng giá thu mua đối với phế shipbreaking và DKP trong nước hơn nữa trong những ngày gần đây, với giá đạt mức 221usd/tấn, phản ánh cả xu hướng mạnh lên của giá phế nhập khẩu và biến động tỷ giá hối đoái ngày càng cao hơn.
Giá mua bằng USD của nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cho phế shipbreaking tăng 4-5usd/tấn vào thứ Hai. Giá mua phế shipbreaking của các nhà máy ở miền tây Thổ Nhĩ Kỳ (Habas, IDC, Ozkan, Ege Celik) tăng lên đến khoảng 220-221usd/tấn, theo các nguồn công nghiệp.
Các nhà máy thép tích hợp lớn nhất của Thổ Nhĩ Kỳ, nhà máy Iskenderun của tập đoàn Erdemir (Isdemir) ở miền nam Thổ Nhĩ Kỳ, cũng tăng giá mua bằng đồng lira cho phế DKP là 30TRY (10usd)/tấn lên mức 665TRY (215usd)/tấn ngày 15/10, trong khi nhà máy Eregli của tập đoàn này ở phía bắc Thổ Nhĩ Kỳ nâng giá thua mua một khoảng tương tự lên mức 680TRY (220usd)/tấn.
Nhà sản xuất thép dài tích hợp lớn nhất của Thổ Nhĩ Kỳ, Kardemir, cũng tăng giá mua DKP lên mức 650TRY (210usd)/tấn, hôm 17/10.
Một trong những nhà sản xuất thép EAF lớn nhất của Thổ Nhĩ Kỳ, Colakoglu, và nhà sản xuất thép hợp kim Asil Celik cũng tăng giá mua DKP lên mức 620TRY (201usd)/tấn và 640TRY ( 207usd)/tấn tương ứng.
Do đó, giá thu mua phế nội địa của những nhà máy sản xuất thép Thổ Nhĩ Kỳ tăng mạnh lên mức khoảng 620-680TRY (201-220usd)/tấn, tùy thuộc vào khu vực và các yêu cầu nhà máy.
Định giá phôi thanh CIS
Platts định giá phôi thanh CIS xuất khẩu hằng ngày ở mức 320usd/tấn FOB Biển Đen thứ Hai, không đổi từ mức thứ Sáu tuần trước.
Một thương nhân đã khẳng định gói thầu của một nhà máy Ukraina ở mức 318-320usd/tấn FOB Mariupol. Trong khi đó một nhà máy CIS khác đã tăng giá chào lên mức 330usd/tấn FOB Novorossiysk trong tuần trước đã buộc phải giảm giá còn 325usd/tấn FOB, do kho có chào giá hỏi mua tại mức cao hơn. Không có giao dịch được báo cáo ở mức chào giá mới. Một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ đang xem xét một chào giá của CIS tại mức 345usd/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ, tương đương 320-325usd/tấn FOB Biển Đen.
Một thương nhân Trung Đông nói rằng chào giá ở mức cao hơn là 350usd/tấn CFR Saudi Arabia, xấp xỉ 325-330usd/tấn FOB Biển Đen; tuy nhiên người này cho hay không có mối quan tâm thu mua tại mức giá cao hơn này do giá thép thành phẩm giảm và hàng tồn kho trong nước khá đầy đủ.
Chào giá Trung Quốc cũng tăng cao hơn, với giá chào mới nhất nghe nói ở mức 350usd/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ, khoảng 335usd/tấn FOB Trung Quốc, một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ nói.
Định giá này đã không đổi ở mức 320usd/tấn FOB Biển Đen, vì không có giao dịch bao cáo ở mức giá cao hơn.
Nhu cầu tiêu thụ suy yếu trong thị trường tấm mỏng Mỹ
Mức tiêu thụ được đa số người tham gia thị trường tấm mỏng Mỹ tỏ ra quan tâm hôm thứ Hai sau khi Metals Service Center Institute phát hành báo cáo hoạt động của các trung tâm dịch vụ trong tháng 09.
Giao hàng thép cuộn dẹt carbon của trung tâm dịch vụ giảm còn 2,07 triệu tấn ngắn trong tháng 09, giảm 10% từ mức 2,3 triệu tấn ngắn trong tháng 08, theo MSCI. Khối lượng hàng giao mỗi ngày trong tháng 09 giảm còn 98.600 tấn ngắn từ mức 100.000 tấn ngắn trong tháng 08 và ở mức thấp nhất thứ hai trong năm 2016 theo cơ sở hằng ngày, kể từ khi đạt mức 96.900 tấn ngắn trong tháng 03.
Trong 9 tháng đầu năm, giao hàng thép cuộn dẹt carbon là 19,53 triệu tấn, giảm 3% từ mức cùng kỳ năm ngoái là 20,12 triệu tấn.
Theo 1 nguồn tin trung tâm dịch vụ, mức giảm mạnh của hoạt động giao hàng trong tháng 09 là do nhu cầu tiêu thụ suy giảm. Người này cho biết giá HRC vẫn là 470-500usd/tấn ngắn, với giá phổ biến cho “khối lượng tương đối” ở mức 470-480usd/tấn ngắn.
Nguồn tin trung tâm dịch vụ này đã không đưa ra tiêu chí đủ điều kiện cho cái gọi là khối lượng tương đối và không rõ liệu nó có nằm trong phạm vi khối lượng tối đa được xem xét trong đánh giá hàng ngày của Platts.
Một nguồn tin trung tâm dịch vụ thứ hai cho biết sự suy giảm tháng trong giao hàng là bất ngờ và gọi nó là một "đòn nặng vào tâm lý" những ai đã kỳ vọng một "sự phục hồi ngắn hạn." Ông tin rằng trong ngắn hạn áp lực giá cả sẽ tiếp tục do thời gian giao hàng ngắn và công suất sử dụng nhà máy hiện đang ở mức thấp.
Tuy nhiên, một nguồn tin nhà máy cho biết dữ liệu MSCI, theo sản phẩm, cho thấy lô hàng thép cuộn cán nóng giảm nhưng khối lượng giao hàng xuất xưởng mỗi ngày của thép cuộn cán nguội và tấm mạ đã thực sự cao hơn so với tháng trước.
Một nhà máy đang chào giá cung cấp CRC ở mức 700ud/tấn ngắn cho các hỏi giá chung chung, theo một nhà chế tạo Trung Tây.
Platts duy trì định giá HRC và CRC hàng ngày ở mức 480-500usd/tấn ngắn và 700-720usd/tấn ngắn, tương ứng. Cả hai định giá được chuẩn hóa theo cơ sở giá xuất xưởng Midwest (Indiana).
Xuất khẩu tôn và cuộn phủ màu của Hàn Quốc tăng mạnh
Xuất khẩu tôn và cuộn phủ màu của Hàn Quốc cải thiện trong 9 tháng qua, nhờ được sự giúp sức của các biện pháp tự vệ chống lại các sản phẩm xuất xứ Trung Quốc.
“Người mua ở châu Âu đang gặp rắc rối với nguồn tôn và thép cuộn mạ màu từ các công ty trong nước, và chúng tôi nhận thấy rằng họ hào hứng nhập khẩu từ Hàn Quốc mặc dù thời gian vận chuyển tới 1-2 tháng”, đại diện bán hàng từ một nhà máy sản xuất tôn ở Seoul cho biết.
Số liệu từ Hiệp hội Sắt thép Hàn Quốc cho thấy tổng khối lượng tôn và cuộn phủ màu xuất khẩu trong 9 tháng qua đã tăng 3,9% so với năm ngoái lên 862.834 tấn. Trong số này, xuất khẩu sang Châu Âu tăng 11,6% đạt 238.692 tấn, chiếm gần 28% trong tổng khối lượng toàn cầu.
“Thuế AD gần đây được áp dụng bởi Châu Âu cho các sản phẩm xuất xứ Trung Quốc đã giúp các doanh nghiệp Hàn Quốc tăng cường khối lượng xuất khẩu một cách đáng kể”, nhân viên xuất khẩu cho một công ty thép cuộn khác ở Seoul cho biết.
Thổ Nhĩ Kỳ là một ví dụ khác, Bộ Kinh tế nước này hồi cuối tháng 6 đã áp mức thuế chống bán phá giá 23.4% cho PPGI nhập từ Trung Quốc. Được hỗ trợ bởi thuế AD lên sản phẩm Trung Quốc, xuất khẩu tôn phủ màu của Hàn Quốc tới Thổ Nhĩ Kỳ trong 9 tháng đầu năm nay đã tăng 120,8% so với năm ngoái- mặc dù vẫn chỉ đạt 837 tấn.
Định giá thép cây FOB Thổ Nhĩ Kỳ
Platts định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 375usd/tấn FOB, tăng 2,50usd/tấn, từ thứ Sáu.
Mức giá chào cao hơn đã được nghe nói đến từ các nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ. Một người bán Iskenderun cho biết 380usd/tấn là mức tối thiểu hôm Hai. Một nhà sản xuất Iskenderun khác nói rằng chào giá trong khu vực này là 385-390usd/tấn FOB, trong khi một người thứ ba cho biết chào giá bán ở Izmir bây giờ đã trên 380usd/tấn.
Một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ cho biết 375usd/tấn và cao hơn sẽ trở thành giá hoàn toàn khả thi trong ngắn hạn, do giá phế ferrous tăng.
Những ghi nhận doanh số bán đến Ai Cập đã được nghe nói ở mức 395-400usd/tấn CFR trọng lượng thực tế, hay thấp hơn 15usd/tấn so với giá FOB. Các mức này không được xem như là mức giá đại diện của thị trường và không được đưa vào số liệu định giá của Platts. .
50.000 tấn cộng vật liệu này từ một nhà sản xuất Izmir đến Vương quốc Anh đã được nghe nói đặt mua tại mức giá 370usd/tấn vào cuối tuần qua, nhưng xác nhận rõ ràng hơn với thị trường không thể được thành lập, cũng không thể có lịch trình cụ thể. Giao dịch này không được tính vào định giá thứ Hai.
Tokyo Steel duy trì giá niêm yết tháng 11
Tokyo Steel Manufacturing thông báo hôm thứ Hai sẽ duy trì giá niêm yết cho các hợp đồng tháng 11, và cho biết quyết định giảm giá hồi tháng 10 của nhà máy đã khiến giá thị trường chạm đáy. “Chúng tôi đặt mục tiêu nâng giá lên sớm nhưng điều kiện tăng giá vẫn chưa chín muồi”, Giám đốc marketing- Kiyoshi Imamura cho hay.
Tháng trước, Tokyo Steel đã giảm giá niêm yết tháng 10 xuống 3.000-7.000 Yên/tấn (29-67 USD/tấn), nhằm tạo ra mức sàn, và đặt mục tiêu bắt đầu tăng dần lên từ mức đó.
Quyết định hôm thứ Hai đồng nghĩa với giá thép dầm hình H cỡ lớn SS400 của nhà máy sẽ vẫn ở mức 65.000 Yên/tấn (625 USD/tấn) cho tháng 11, trong khi HRC SPHC 1.7-22 mm sẽ có giá 50.000 Yên/tấn (481 USD/tấn).
Việc vận chuyển thép hình đã bắt đầu tăng và tồn kho giảm nhưng nhu cầu thép cây vẫn còn trì trệ, Imamura thừa nhận. “Điều kiện thị trường của từng sản phẩm khác nhau vì vậy chúng tôi không thể nói khi nào mới có thể bắt đầu ép khách hàng với việc tăng giá”, Tokyo Steel sẽ theo dõi xu hướng thị trường một cách sát sao và sẽ điều chỉnh sản lượng để đáp ứng nhu cầu hiện hành.
Tokyo Steel dự kiến sẽ sản xuất 175.000 tấn thép thành phẩm trong tháng này, tăng 10.000 tấn so với tháng 9. Trong đó, sản lượng thép dầm hình H sẽ đạt 90.000 tấn, tăng 5.000 tấn so với tháng trước, trong khi HRC sẽ tăng 5.000 tấn lên 50.000 tấn. Sản lượng thép tấm sẽ vẫn còn 15.000 tấn.
Trong khi đó, công ty đang nhận được giá hỏi mua cho thép dầm hình H để xuất khẩu là 490-510 USD/tấn FOB và 470-490 USD/tấn FOB cho HRC, cả hai đều không đổi so với 1 tháng trước. “Những mức giá này không hấp dẫn chúng tôi vì vậy chúng tôi không vội chấp nhận đơn hàng xuất khẩu vào lúc này. Công ty dự kiến sẽ sản xuất 15.000 tấn HRC để xuất khẩu tháng này, tăng 3.000 tấn so với tháng 9.
Thép cây miền bắc Trung Quốc được hỗ trợ bởi giá thép giao sau tăng
Giá thép cây ở miền bắc Trung Quốc tăng hôm thứ Hai khi các đại lý nâng chào giá và niềm tin được hỗ trợ bởi thị trường thép cây giao sau mạnh lên.
Tại thị trường bán lẻ Bắc Kinh hôm 17/10, giá giao ngay cho thép cây HRB400 đường kính 18-25mm được định giá 2.475-2.495 NDT/tấn (369-371 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT, tăng 25 NDT/tấn (4 USD/tấn) so với thứ Sáu tuần trước. Đây là mức giá cao nhất kể từ ngày 13/9.
Mức giá tăng tại Bắc Kinh không mạnh như những khu vực khác như miền đông và nam nước này, vì các đại lý ở Bắc Kinh chủ yếu tập trung vào việc thanh lý hàng tồn kho. Tháng 11 có thể chứng kiến nguồn cung nhiều hơn từ đông bắc, nơi nhu cầu từ lĩnh vực xây dựng giảm vì hoạt động xây dựng chậm lại cùng với nhiệt độ xuống thấp.
Trong khi đó, rất có thể giá giao ngay sẽ có xu hướng đi lên trong ngắn hạn nhờ được hỗ trợ bởi chi phí nguyên liệu tăng trong đó có quặng sắt và than cốc.
Mức tồn kho tại Bắc Kinh giảm trong tuần trước, vì nguồn cung từ công ty con của Hebei Iron &Steel là Chengde Iron & Steel gần đây đã sụt giảm do thiếu kim loại nóng. Điều này cũng được dự báo sẽ tiếp tục bảo vệ thị trường Bắc Kinh khỏi bất cứ đợt rớt giá mạnh nào. Hegang là công ty cung cấp thép xây dựng thống trị ở Bắc Kinh.
Theo Mysteel, thép cây tồn kho tại Bắc Kinh tính tới ngày 14/10 giảm 12.500 tấn tức 4% so với tuần trước còn 270.800 tấn. Trên cả nước, lượng tồn kho đã giảm 3,54% so với tuần trước còn 4,31 triệu tấn, và cũng giảm 5,11% so với năm ngoái.
Cũng trong ngày 17/10, hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 1/2017 trên sàn Shanghai Futures Exchange chốt tại 2.431 NDT/tấn, tăng 1,3% tức 32 NDT/tấn so với ngày giao dịch trước đó. Giá đã lên tổng cộng 178 NDT/tấn kể từ đầu tháng này.
Thép cây Châu Á tiếp tục tăng do giá Trung Quốc lên cao hơn
Thị trường thép cây Châu Á tiếp tục tăng trong ngày đầu tuần khi các nhà xuất khẩu Trung Quốc nâng chào giá lên cao hơn nữa, vì giá trong nước và chi phí nguyên liệu đều tăng.
Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm ở mức 334-336 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế, tăng 3 USD/tấn so với ngày trước đó.
Một giao dịch nghe nói được chốt với giá 350 USD/tấn CFR Hong Kong trọng lượng thực tế (341 USD/tấn FOB) giao tháng 11. Nhưng không có thêm chi tiết nào được tiết lộ. Một nhà tích trữ khác cho biết người mua không nghĩ giá sẽ tăng bền vững.
Các nhà xuất khẩu khác đã nâng chào giá tới Hong Kong lên khoảng 355-360 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế (tương đương 346-351 USD/tấn FOB, phí vận chuyển 9 USD/tấn). Mức giá này cao hơn khoảng 10 USD/tấn so với tuần trước đó.
Chào giá thép cây Trung Quốc tới Singapore vẫn ở mức cao 340-345360 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, tương đương 335-340 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, phí vận chuyển 15 USD/tấn và dung sai khối lượng 3%. Một thương nhân khác cho biết các nhà máy miễn cưỡng để chào mức giá thậm chí là 330 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết, tương đương 340 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, dung sai khối lượng 3%. Khách hàng ở đó có lẽ sẽ không thực hiện bất cứ hoàn giá nào bây giờ (hoàn giá là mặc cả về giá cả hoặc về các điều kiện giao dịch. Khi người nhận được chào hàng hoàn giá thì chào hàng trước coi như hủy bỏ) và họ muốn đợi thị trường rõ ràng hơn do giá bán thấp tại Singapore.
Một nhà máy ở miền đông đã chào giá 335 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết (345 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế). Một nhà máy khác chào giá 350 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế trong khi một nhà máy ở đông bắc cân nhắc nâng chào giá lên 345 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế.
Angang nâng giá cho hầu hết các loại thép trong tháng thứ 3 liên tiếp
Anshan Iron & Steel (Angang) sẽ nâng giá xuất xưởng tháng 9 cho HRC lên 50 NDT/tấn (7 USD/tấn) và 100 NDT/tấn cho CRC, HDG. Đây là tháng thứ 3 liên tiếp Angang nâng giá xuất xưởng cho những sản phẩm này.
Theo đó, giá xuất xưởng tháng 11 của Angang cho Q235 5.5mm HRC sẽ tăng lên 3.200 NDT/tấn (475 USD/tấn) chưa bao gồm 17% VAT, trong khi SPCC 1.0mm CRC sẽ có giá 4.105 NDT/tấn. Tuy nhiên, nhà máy đã duy trì giá xuất xưởng cho thép tấm từ tháng 10.
Chính sách giá của Angang nằm trong dự báo của thị trường do giá thép dẹt giao ngay trong nước tăng nhanh. Hôm thứ Hai, Platts định giá Q235 5.5mm HRC trên thị trường Thượng Hải tăng 35 NDT/tấn so với thứ Sáu tuần trước lên 2.870-2.880 NDT/tấn gồm VAT. Giá HRC giao ngay đã tăng tổng cộng 130 NDT/tấn (5%) kể từ đầu tháng 10.
Một thương nhân ở Thượng Hải tin rằng nguyên nhân chính khiến giá HRC tăng là do chi phí than đá và than cốc cao. “Chi phí nguyên liệu tăng đã khiến các nhà máy nâng giá xuất xưởng”. Một số thương nhân đang suy đoán rằng giá thị trường giao ngay sẽ tiếp tục tăng theo. Nguồn cung than đá và than cốc hạn chế có thể sẽ làm giảm thêm nữa sản lượng của nhà máy trong tháng này, điều này sẽ hỗ trợ cho giá thép.
Mặc dù một số thương nhân và nhà quan sát thị trường cho biết giá thép tăng đã kích thích sức mua của không chỉ các thương nhân mà còn là người tiêu dùng trực tiếp, một số thương nhân khác mà Platts đã liên hệ vẫn còn dè dặt về giá HRC tăng quá nhanh. Vì họ lập luận rằng không có sự cải thiện đáng kể nào về nhu cầu từ phía người mua.
HRC Châu Á tăng giá theo thị trường Trung Quốc
Giá HRC giao ngay ở Châu Á tăng trong ngày thứ Hai do giá từ thị trường Trung Quốc cao hơn. Platts định giá SS400 HRC 3.0mm ở mức 385-390 USD/tấn FOB, tăng 6 USD/tấn so với thứ Sáu tuần trước.
Tại thị trường Thượng Hải, Q235 5.5mm HRC được định giá 2.870-2.880 NDT/tấn (426-427 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT, cao hơn thứ Sáu tuần trước 35 NDT/tấn.
Một nhà máy lớn ở miền đông Trung Quốc duy trì chào giá không đổi ở mức 385 USD/tấn FOB cho SS400 HRC. Tuy nhiên, nhà máy này đang cân nhắc việc nâng chào giá lên cho phù hợp với giá trong nước và giá đặt mua của khách hàng nước ngoài cao hơn. Một nhà máy khác ở miền bắc đã ngưng nhận đơn hàng vì cũng đang cân nhắc tăng chào giá.
Người mua Việt Nam đưa ra giá dưới 400 USD/tấn CFR cho SS400 HRC (phí vận chuyển 8-10 USD/tấn). Người mua Hàn Quốc sẽ không chấp nhận mức giá trên 400 USD/tấn CFR (phí vận chuyển 10 USD/tấn).
Đối với thép cuộn SAE, một số thương nhân đã vội đặt hàng với tổng khối lượng 80.000 tấn từ một nhà máy ở đông bắc với mức giá 400 USD/tấn FOB Trung Quốc để giao tháng 12. “Họ dự báo giá sẽ tăng, vì vậy họ đang mua vào”, một thương nhân người Việt cho biết, và nói thêm rằng nhiều khách hàng ở Việt Nam thậm chí có thể đồng ý mua thép cuộn SAE với giá 415 USD/tấn CFR.
Một nhà máy ở miền bắc đã bán 25.000 tấn thép cuộn SAE với giá 410-413 USD/tấn CFR Việt Nam để giao cuối tháng 12 và tháng 01. Chào giá chính thức của nhà máy là 420 USD/tấn CFR Việt Nam.