Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc ổn định
Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc ổn định ngày thứ ba liên tiếp tính tới hôm qua do người mua vẫn giữ giá. Trong khi đó, có vài nhà máy giảm nhẹ giá chào để kích cầu.
Một nhà máy chào bán mức 560 USD/tấn FOB Trung Quốc, không đổi cho thép cây 10-40mm giao cuối tháng 6-tháng 7. Các nhà máy khác vẫn ngưng chào bán do giá nội địa cao hơn.
Tại Bắc Kinh, giá giao ngay thép cây HRB400 ổn định mức 4.065 NDT/tấn (638 USD/tấn) xuất xưởng trọng lượng thực tế có thuế.
Tại Singapore, giá chào thép cây 10-40mm Trung Quốc ở mức 565-567 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết giao tháng 6, tương đương 562-564 USD/tấn FOB, giảm 1-3 USD/tấn so với ngày trước. Một thương nhân nội địa giảm giá chào để kích cầu.
Một thương nhân Trung Quốc chào 570 USD/tấn CFR hoặc cao hơn nhưng giá mua vẫn 560 USD/tấn hoặc thấp hơn, không đổi.
Tại Hồng Kông, vài giá chào được nghe. Giá chào mua vẫn chỉ 540-550 USD/tấn CFR, không đổi, tương đương 527-537 USD/tấn FOB Trung Quốc với phí vận chuyển 13 USD/tấn.
Giá xuất khẩu HRC Trung Quốc vẫn ổn định
Giá xuất khẩu HRC Trung Quốc vẫn ổn định dựa vào giao dịch mỏng trong khi người bán từ chối giảm giá.
Các giao dịch HRC thương phẩm chốt mức 590-595 USD/tấn FOB giao tháng 7-tháng 8. Chào giá cho thép Trung Quốc vẫn ở mức 600-605 USD/tấn FOB giao tháng 7 trong khi giá chào mua thấp hơn ít nhất 10 USD/tấn.
Một nhà máy lớn ở đông bắc giảm xuất khẩu HRC giao tháng 7 dựa vào lợi nhuận tốt trong nước.
Tồn kho thép đang giảm và tiêu thụ nội địa mạnh nên một nhà máy dự báo giá còn được hỗ trợ tới tháng 6.
Một giao dịch chốt hôm qua cho tấm cùng loại ở mức 602 USD/tấn CFR Việt Nam giao tháng 7, với khối lượng nhỏ. Chào giá mua và chào bán cho HRC SS400 tầm 590-602 USD/tấn CFR Việt Nam.
Nhu cầu tiêu thụ thép cuộn SAE thậm chí trì trệ hơn do nhiều nhà máy tuyên bố vẫn chưa bán được nhiều kể từ tuần trước. Các thương nhân chào giá HRC SAE1006 ở mức 608-610 USD/tấn CFR Việt Nam. Tuy nhiên, giá chào mua cao nhất là 603 USD/tấn CFR Việt Nam.
Một chào mua được nghe ở mức 595 USD/tấn CFR Việt Nam cho HRC SAE1006 Nga giao tháng 8, thấp hơn giá chào bán 10 USD/tấn. Giá chào cho SAE1006 1.9mm Đài Loan ở mức 630 USD/tấn CFR Việt Nam.
Tại Thượng Hải, giá giao ngay HRC Q235 5.5mm tăng 20 NDT/tấn lên 4.240-4.260 NDT/tấn (665-668 USD/tấn) xuất xưởng có thuế.
Tại sàn kỳ hạn, hợp đồng HRC giao tháng 10 chốt tăng 14 NDT/tấn lên 3.810 NDT/tấn.
Giá tấm mỏng Mỹ ổn định do thị trường chờ đợi thuế quan sáng tỏ
Giá tấm mỏng Mỹ tiếp tục ổn định với dự báo sẽ còn bình ổn tới cuối tháng.
Sự bất ổn xoay quanh chính sách 232 Mỹ tiếp tục giữ sức mua ở thị trường giao ngay ở mức tương đối yếu. Mỹ đã đạt được thỏa thuận nguyên tắc với Argentina, Úc và Braxin về các thỏa thuận thay thế thuế nhập khẩu 25% trong tháng 3 nhưng chưa có thông báo chính thức nào được công bố. Việc miễn thuế tạm thời áp dụng cho các nước này tới ngày 01/6.
Hiện có sự lo lắng giữa các nhà máy Canada rằng họ có thể bị dính thuế 25%. Chào giá HRC hiện tại từ Canada tới Mỹ là 865 USD/tấn FOB. Canada và Mexico đang được miễn thuế tạm thời do hai nước này tiếp tục đàm phán với Mỹ liên quan tới Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ.
Mọi người đang chờ tới ngày 01/6 để tình hình rõ ràng hơn. Giá HRC giao ngay hiện tại là 900-930 USD/tấn tùy nhà máy cho khối lượng giao dịch nhỏ hơn. Khách hàng lớn có thể mua 880-890 USD/tấn.
Thị trường giao ngay vẫn im ắng và người mua dựa vào hợp đồng để tránh thị trường giao ngay. Giá chào từ một nhà máy tích hợp là 900 USD/tấn.
Vài trung tâm dịch vụ cho rằng giá CRC và HDG có suy yếu. Trong khi đó, có đồn đoán về làn song tăng giá mới nhưng theo các thành viên thị trường thì phải sau ngày 01/6.
Thời gian sản xuất HRC hiện là 6.9 tuần, tăng so với mức 6.7 tuần ngày 09/5. Thời gian sản xuất CRC là 8 tuần, không đổi còn HDG tăng từ 8.7 tuần lên 9.4 tuần.
Giá thép cuộn CIS suy yếu trong bối cảnh giao dịch trầm lắng
Giá CRC CIS tiếp tục suy yếu tuần này với hoạt động hạn chế trên thị trường giao ngay và được dự báo chưa thể sôi động cho tới tuần sau do các nhà tiêu thụ cuối phần lớn dựa vào tồn kho.
Một nhà máy Nga vẫn chưa công bố giá chào chính thức nhưng cho rằng giá giao dịch cho HRC nhỏ và lớn tầm 555 USD/tấn FOB và 565 USD/tấn FOB trong khi không có bất cứ giao dịch nào trong 5 ngày qua. Các ngân hàng đã ngừng cung cấp giao dịch với Iran và nước này không thể nhập khẩu thép với lượng như trước, kể cả từ Nga là nhà cung cấp chính.
Một thương nhân ước tính giá CRC tầm 620-630 USD/tấn FOB Biển Đen với giá 630 USD/tấn chỉ dành cho Ai Cập, nơi xuất khẩu thép đạt giá cao.
Nhiều thương nhân cho rằng CRC ít nhất cũng được mua ở mức 620-625 USD/tấn FOB. Tuy nhiên, một nhà máy chào bán 610 USD/tấn cho biết giá 625 USD/tấn FOB không thu hút, nhưng giá 610 USD/tấn cũng không được xác nhận bởi các nguồn khác.
Giá chào thấp nhất cho HRC từ Ukraina với giá giảm còn 550 USD/tấn FOB Biển Đen.
Các nhà máy Ukraina bán giá thấp, dưới giá thị trường vì chấp nhận lời ít. Nếu họ theo đuổi 5-10% lời thì hiện tại hài lòng với 3% do sản lượng cao, một nguồn tin Bắc Phi cho hay.
Thị trường chính là Thổ Nhĩ Kỳ cũng không tốt. Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ không thể xuất khẩu tới Mỹ, họ giảm sản lượng và mua ít phế cũng như bán thành phẩm hơn nên có vẻ giá Ukraina phù hợp với Thổ Nhĩ Kỳ.
Các nhà máy Nga từ chối giảm giá xuất khẩu theo vì sẽ tác động giá nội địa ngay khi bắt đầu mùa xây dựng.
Kết quả là, giá thép cuộn Nga đã cao hơn giá Ukraina 15 USD/tấn. HRC Nga có sẵn mức 560-565 USD/tấn FOB Biển Đen.
Phần lớn các nhà máy CIS phụ thuộc vào việc bán sang Thổ Nhĩ Kỳ và MENA ngoại trừ Severstal, đều gặp áp lực bán hàng còn lại của tháng 6.
Severstal bị thuế chống bán phá giá 17.90 Euro/tấn cho việc bán HRC sang EU. Công ty này đã không xuất hiện trên thị trường Biển Đen trong một thời gian và doanh số bán HRC gần đây theo giá FOB St Petersburg là 580 USD/tấn.
Triển vọng ngắn hạn suy yếu, những gì diễn ra vào tháng 6-tháng 8 tùy vào sản lượng thép Trung Quốc. Nếu Trung Quốc tăng sản xuất thì giá sẽ tiếp tục giảm.
Trong khi đó, chào giá phôi phiến là 540 USD/tấn FOB Biển Đen. Thị trường này hưởng lợi sau việc Mỹ trừng phạt Iran.
Tâm lý suy yếu gây áp lực cho thị trường HDG Thổ Nhĩ Kỳ
Tiêu thụ trì trệ cả trong và ngoài nước , giá HRC nhập khẩu và nội địa đều giảm cộng với đồng Lira liên tục rớt giá đã gây áp lực lớn cho thị trường thép mạ.
Vài nhà may tăng chiết khấu hơn nữa trong tuần này để kích cầu nhưng các khách hàng nội địa vẫn thận trọng trong môi trường kinh tế này, trong khi tiêu thụ xuất khẩu chậm hơn.
Đồng Lira đã giảm xuống mức thấp mới so với dolla, còn 4.50 Lira/USD trong sáng hôm qua và phục hồi nhẹ vào chiều do Tổng thống Erdogan triệu tập các thành viên hàng đầu của bộ kinh tế họp gấp lần thứ 2 trong tháng này.
Một nhà máy lớn ở Marmara giảm giá HDG xuống 10 USD/tấn với chào giá loại DX51D 0.50mm còn 765 USD/tấn xuất xưởng.
Các nhà máy khác chào giảm còn 780-790 USD/tấn xuất xưởng kèm chiết khấu cho đơn hàng lớn.
Công suất sản xuất HDG mới gần đây đã được đưa vào thị trường, làm tăng sự cạnh tranh trong nước và áp lực giá thêm nữa khi bước vào mùa tiêu thụ trì trệ trong hè và lễ Ramadan.
Giá xuất khẩu thép dây Trung Quốc tăng trở lại nhờ sức mua tăng
Giá xuất khẩu thép dây Trung Quốc tăng lại vào tuần này do các nhà máy Trung Quốc tăng giá và sức mua cải thiện.
Tại Thượng Hải, giá giao ngay thép dây Q195 6.5mm ổn định ở mức 3.890 NDT/tấn (610 USD/tấn) xuất xưởng có thuế trong tuần này.
Thị trường giao ngay ổn định tuần này, nên các nhà máy tập trung hơn vào trong nước vì lợi nhuận cao hơn xuất khẩu.
Một nhà xuất khẩu lớn tỉnh Hà Bắc ngưng chào bán trong ngày thứ tư sau khi chào bán thép dây không hợp kim SAE1008 6.5mm tại mức 570 USD/tấn FOB tuần này, tăng 8 USD/tấn so với tuần trước nhờ đơn hàng trong nước tốt.
Một nhà xuất khẩu lớn ở đông bắc Trung Quốc đã bán hết thép phân bổ tuần này, tầm 24.000 tấn thép dây hợp kim SAE1008 6.5mm tại mức 570 USD/tấn FOB giao tháng 7 so với mức chào gái 580 USD/tấn cách đây 1 tuần.
Trong khi đó, lượng đơn hàng tại các nhà máy khác chậm, do giá chào cùng loại của họ cao hơn nhiều. Trong ngày hôm qua, một nhà máy khác ở đông bắc chào 590 USD/tấn FOB, ổn định so với tuần trước. Một nhà xuất khẩu lớn ở miền đông chào bán 585 USD/tấn FOB, tăng 5 USD/tấn so với tuần trước.
Tuy nhiên, một nhà máy cho biết các chào giá trên không thu hút.
Trước giá chào cao hơn từ nhà máy thì các thương nhân cũng tăng giá lên 580-585 USD/tấn CFR Manila (565-570 USD/tấn FOB), theo vài khách hàng Philippine và các thương nhân Trung Quốc. Giá chào 600 USD/tấn CFR trở nên quá cao cho người mua.
Một thương nhân miền đông cho biết giá chào mua tầm 565-570 USD/tấn CFR Manila (550-555 USD/tấn FOB), vẫn chưa thể bắt kịp giá của thương nhân. Tồn kho nội địa không thấp. Một thương nhân cho hay đã ngưng chào bán do dự báo giá từ người mua sẽ tăng.
Một thương nhân miền bắc cho biết giá chào mua cao nhất đạt 560 USD/tấn FOB nhưng quá rủi ro để bán mức này dựa vào giá cao từ phía nhà máy.
Nhà máy Jiujiang Wire Co. ở Hà Bắc giữ nguyên giá niêm yết thép dây ở mức 3.830 NDT/tấn xuất xưởng có thuế. Trong khi đó, một nhà máy Nhật chào bán tấm dày A36 tại mức 680 USD/tấn CFR Việt Nam. Một thương nhân Việt Nam cho biết phía nhà máy có thể chấp nhận bán 660 USD/tấn CFR Việt Nam cho ai có nhu cầu. Tuy nhiên, không có giao dịch nào tuần này.
Giá tấm dày xuất khẩu Trung Quốc ổn định sau đà tăng 4 tuần
Giá tấm dày xuất khẩu Trung Quốc vẫn ổn định trong khi sức mua có suy yếu trong tuần.
Chào giá cho loại SS400 ở mức 615-625 USD/tấn FOB Trung Quốc. Một nhà máy phía đông được nghe đã bán loại này ở mức 620 USD/tấn FOB trong tuần. Tuy nhiên, không có giao dịch tới Hàn Quốc hoặc Việt Nam.
Một nhà máy khác vẫn giữ chào giá ở mức 615 USD/tấn FOB cho tấm dày SS400 nhưng tuyên bố rằng không có nhiều thép cho xuất khẩu bởi vì giá nội địa cao hơn nhiều và tiêu thụ vẫn rất tốt.
Theo một nguồn tin, giá nội địa Hàn Quốc cho tấm dày SS400 Trung Quốc từ các thương nhân tới khách hàng tăng lên 700.000 Won/tấn (648 USD/tấn), tăng 20.000 Won/tấn (18.50 USD/tấn) so với tuần trước.
Chào giá hiện tại cho tấm dày Trung Quốc tới Việt Nam tầm 630-635 USD/tấn cho loại SS400 và 638-645 USD/tấn cho loại A36. Tuy nhiên, người mua vẫn im ắng dù các nhà máy cảnh báo nguồn cung thắt chặt.
Giá HRC Ấn Độ mở rộng đà tăng lên 7 tuần
Giá HRC Ấn Độ mở rộng đà tăng lên 7 tuần, với các giao dịch tiếp tục diễn ra ở mức cao nhờ tiêu thụ ổn định và nguồn cung hạn chế.
Giá cho HRC IS2062, 2.5-10 mm giao tới Mumbai ở mức 45.900 Rupees/tấn (675.65 USD/tấn), tăng 100 Rupees/tấn so với tuần trước. Giá chưa tính thuế GST 18%.
Tiêu thụ hạ nguồn từ các ngành cơ sở hạ tầng và xe thương mại chạy bằng diesel mạnh, khiến các nhà tiêu thụ cuối chấp nhận mua lên tới 46.000 Rupees/tấn.
Nhu cầu tiêu thụ từ ngành sản xuất ống thép và chế tạo thép nói chung cũng mạnh.
Trong khi đó, sự tái cấu trúc ngành thép tiếp tục được thúc đẩy, cho thấy các nhà máy là mục tiêu của việc thâu tóm không thể sản xuất hết công suất, dù lợi nhuận lúc này cao.
Trong các nhà máy còn lại, một nhà máy cho biết sự giảm giá của đồng Rupee gần đây dựa vào giá dầu thô tăng là nhân tố đẩy giá nguyên liệu thô nhập khẩu tăng.
Theo dự báo, để bù vào chi phí cao, các nhà máy phải tăng giá thành phẩm.
Các nhà máy Ấn Độ hiếm khi thông báo điều chỉnh giá trong giai đoạn tạm thời chỉ trong 1 tháng trừ trường hợp đặc biệt.