Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 02/7/2018

 

Bản tin than đá tuần: giá tăng do nguồn cung than chất lượng cao thắt chặt

Giá than đá tới Châu Á tăng trưởng tuần qua do các mối lo về nguồn cung thắt chặt cho vài loại chất lượng cao dẫn tới giá giao dịch cao hơn.

Giá than chất lượng cao trong tuần qua giảm 1 USD/tấn xuống 199 USD/tấn FOB Úc trong khi giá CFR Trung Quốc tăng 7 USD/tấn lên 211 USD/tấn CFR Trung Quốc.

Tại Trung Quốc, một giao dịch với một nhà máy thép ngày thứ tư ở mức 211 USD/tấn CFR Trung Quốc cho loại than chất lượng cao có 71-73% CSR, khối lượng 85.000 tấn và thời hạn tàu đến cảng bốc dỡ hàng là 21-30/8.

Trước tin tức các lô hàng PLV hạn chế trong tháng 8, thị trường thận trọng về tiêu thụ do đồng NDT giảm giá. Đồng NDT đã giảm so với dolla, xuống còn 6.6166 NDT/USD.

Đồng NDT mất giá là nhân tố lớn, khiến giá thu mua trở nên đắt đỏ khi tính bằng đồng USD.

Tại thị trường FOB, nhiều nhà máy thép dự báo giá than đá chất lượng cao sẽ tăng theo sau sự tăng trưởng của giá Trung Quốc. Dự báo tiêu thụ cũng tăng từ Ấn Độ do vài người mua tìm kiếm lô hàng giao ngay tháng 8.

Về nguồn cung, vẫn còn nhiều bất ổn liên quan tới xe lửa Aurizon, dẫn tới vài sự thắt chặt nguồn cung.

Tuần trước, Aurizon đề xuất giảm hoạt động gây nhiều tranh cãi, đe dọa tới việc xuất khẩu 20 triệu tấn than đá Queensland/năm trong 10 tuần. Tuy nhiên, Hội đồng tài nguyên Queensland đã từ chối yêu cầu này vào cuối tuần.

 

Các dịch vụ xuất khẩu than đá cảng Queensland vẫn bị ảnh hưởng, với tác động hàng năm dự báo khoảng 20 triệu tấn về khối lượng, phát ngôn viên công ty cho hay.

Bản tin quặng tuần: giá giao dịch thu hẹp

Thị trường quặng sắt nhập khẩu giao dịch trong biên độ hẹp tuần qua do nhu cầu tiêu thụ suy yếu cho quặng cám trong khi chênh lệch giá với quặng cục tiếp tục tăng.

Giá nhập khẩu quặng 62% Fe IODEX vào Trung Quốc ở mức 64.45 USD/tấn CFR Trung Quốc hôm thứ sáu, tăng 0.50 USD/tấn so với thứ năm và 0.55 USD/tấn so với thứ sáu tuần trước đó.

Các kiểm soát môi trường tiếp tục làm hạn chế nhu cầu tiêu thụ cuối do họ không muốn tích trữ quá nhiều tồn kho.

Đồng NDT mất giá khiến vài người mua tránh xa thị trường giao ngay.

Một khi đồng NDT mất giá thì chi phí nhập khẩu đều tăng mạnh nên ảnh hưởng tới chiến lược giao dịch các nhà nhập khẩu. Do đó, họ thận trọng và giữ tồn kho mức thấp để chờ xu hướng thị trường rõ ràng hơn.

Tồn kho thép các nhà máy tăng nhẹ trong tuần do tiêu thụ chậm. Lợi nhuận thép thu hẹp do giá giảm. Phôi thanh Đường Sơn giảm 50 NDT/tấn xuối tuần trước xuống 3.600 NDT/tấn (544.09 USD/tấn).

Vài nhà máy lo lắng về giá thép dựa vào mùa tiêu thụ thấp điểm do nhiệt độ cao kèm mưa tại Trung Quốc.

Tuy nhiên, nhu cầu tiêu thụ quặng sắt có hàm lượng alumina thấp của Braxin tương đối mạnh hơn. Lợi nhuận tổng vẫn cao của các nhà máy thép tiếp tục hỗ trợ nhu cầu tiêu thụ quặng chất lượng cao, thân thiện môi trường như IOCJ và quặng cục.

Vài thành viên thị trường được khuyến khích bởi các tin tức vài nhà máy ở Giang Tô và Sơn Đông dần dần tái sản xuất trong tháng 7 sau các cuộc khảo sát môi trường.

Chênh lệch quặng cục với quặng cám vẫn tăng tuần này, được thúc đẩy bởi quá trình giảm tồn kho quặng cục tại cảng diễn ra nhanh và triển vọng tiêu thụ mặt hàng này mạnh trong vài tuần tới. Dựa vào lợi nhuận thép các nhà máy vẫn cao, việc sử dụng nguyên liệu đắt tuân theo kiểm soát khí thải môi trường không phải là vấn đề nghiêm trọng.

Chênh lệch giá cục và cám giao ngay là 0.3175 USD/tấn trong ngày thứ sáu, tăng 0.0159 USD/tấn so với thứ năm và 0.0756 USD/tấn so với tuần trước đó.

Bản tin phế tuần: giá ổn định tại Thổ Nhĩ Kỳ và Châu Á

Thị trường phế nhập khẩu Thổ Nhĩ Kỳ và phần lớn các thị trường phế liệu Châu Á đều duy trì mức giá ổn định trong tuần.

Giá phế liệu nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ hầu như không thay đổi vào tuần trước sau cuộc bầu cử tổng thống, với HMS 1/2 (80:20) được định giá khoảng 354 USD/tấn CFR.

Các giao dịch được thực hiện nhờ nhu cầu tiêu thụ tăng - chủ yếu ưa chuộng nguyên liệu vụn - và đồng Lira phục hồi lên khoảng 4.6 Lira/USD kể từ hôm thứ Ba đã giúp các nhà máy mua đơn hàng tháng 7 vừa qua.

Trong khi gặp áp lực từ doanh số bán thép thành phẩm chậm ở Thổ Nhĩ Kỳ, hầu hết người tham gia đều thấy thị trường cân bằng giữa mức giá mạnh của Châu Âu và nhu cầu bền vững từ các nhà máy.

Cùng với thị trường giao ngay, thép phế tương lai có sự thay đổi nhỏ và chỉ có khối lượng giao dịch nhỏ trên sàn London Metal Exchange.

Thị trường phế liệu nóng chảy khối lượng lớn Đông Á vẫn ổn định, trong bối cảnh nhu cầu giảm, các nguồn tin cho biết. phế HMS 1/2 80:20 khối lượng lớn nhập khẩu được đánh giá không thay đổi ở mức 355-360 USD/tấn CFR hôm thứ Tư.

Các thành viên thị trường Hàn Quốc thường quan sát thấy sự chậm chạp trong thị trường thép thành phẩm - đặc biệt là thép cây - và có khả năng chống lại bất kỳ sự tăng giá nào khi đối mặt với những tháng mùa hè sắp tới.

Tại Việt Nam, tâm lý thị trường lo ngại khi giá phôi giảm 100 NDT/tấn (15 USD/tấn) đối với thị trường nội địa Trung Quốc đã làm bùng nổ thị trường hôm thứ ba, người mua cho biết.

Mặc dù giá phôi thép trong nước của Trung Quốc đã tăng trở lại 10 NDT/tấn hôm thứ tư, người mua vẫn thận trọng khi mua phế liệu và thậm chí còn nhạy cảm hơn về việc tăng giá phế liệu.

Tương tự, giá chào bán HMS 1/2 50:50 của Hồng Kông vẫn mắc kẹt ở mức 345 USD/tấn CFR Việt Nam, trong khi nhu cầu tiêu thụ suy yếu và duy trì ở mức giá trước đó là 338-340 USD/tấn hôm thứ Tư.

Giá xuất khẩu phế liệu của Nhật Bản suy yếu theo sau giá dự thầu giảm của các nhà máy Hàn Quốc.

 

Giá xuất khẩu phế H2 của Nhật Bản ở mức 33.000 Yên/tấn (300 USD/ tấn) FOB Vịnh Tokyo hôm thứ Tư, giảm 750 Yên/tấn so với mức trung bình của tuần trước.

Vào ngày 22/6, Hyundai Steel đã dự thầu ở mức 33.000 Yên/tấn FOB đối với nguyên liệu H2, giảm 500 Yên/tấn so với giá ngày 14/6. Nhà máy này cũng giảm giá chào thầu xuống 500 yên/ tấn cho các loại khác, bao gồm 40.000 Yên/ tấn FOB cho Shindachi Bara; 37.000 Yên /tấn FOB cho phế vụn và HS; và 33.500 Yên/tấn cho H1/H2 50:50, các nguồn tin cho biết.

Giá HMS 1/2 (80:20) khối lượng nhỏ tới Đài Loan tăng do giá chào bán tăng và chi phí vận chuyển bằng xe container áp dụng từ ngày 01/7 trở đi, tăng 5 USD/tấn so với tuần trước lên 335 USD/tấn CFR, người mua cho biết.

Nhiều giao dịch cho phế HMS 1/2 80:20 đến Đài Loan được chốt giá 335 USD/ tấn CFR vào cuối tuần, một nhà máy Đài Loan cho biết.

Triển vọng giá phế vụn, phế chất lượng cao khác nhau trước tuần thu mua tháng 7

Vấn đề về giao thông, tình hình nguồn ucng khác nhau giữa các loại phế cộng với lễ ngày 04/7 tới gần khiến triển vọng giá phế tháng 7 không rõ ràng.

Ngày càng nhiều người tin rằng tồn kho phế vụn và dòng chảy mạnh có thể giúp các nhà máy giảm giá. Tuy nhiên, vấn đề giao thông trong năm nay có thể nâng đỡ vài loại.

Phức tạp nữa là ngày lễ Quốc khánh Mỹ 04/7 vào giữa tuần này dẫn tới một số người tin rằng tuần thu mua tháng 7 có thể bắt đầu sớm vào thứ hai còn số khác nghĩ rằng có thể bắt đầu muộn vào thứ hai tuần sau, ngày 09/7.

Không có sự hủy bỏ đơn hàng phế chưa giao trong ngày thứ sáu, ngày giao dịch cuối cùng của tháng, thời điểm các nhà máy thường hủy bỏ đơn hàng phế khi họ tin rằng có thể mua giá thấp hơn trong tháng tới.

Các nhà cung cấp Northeast và thung lung Ohio kiên quyết rằng thị trường sẽ không tồi tệ hơn khả năng giá ổn định cho phế vụn. Một nhà cung cấp phế tin rằng các nhà máy sẽ nhận được 30-40% lựng mua hàng tháng 6 của họ trong tháng 7 này.

Việc thiếu hụt xe tải và tàu lửa không phải là thứ duy nhất khiến người mua thận trọng đẩy giá xuống. Phế chất lượng cao vẫn được chuộng do nguồn cung thấp và các nhà máy cần. Tâm lý người bán là giá phế chất lượng cao tăng 10-20 USD/tấn và có thể cao hơn còn phế cũ sẽ ổn định.

Một nhà cung cấp phế Southeast tin rằng phế cắt sẽ thắt chặt và hỗ trợ giá phế vụn ổn định.

Phế vụn dường như hơi dư cung còn phế cắt thì thiếu cung. Các nhà máy cần mua nhiều phế vụn hơn để bù lại phần phế cắt thắt chặt, giúp giữ giá ổn định. Phế cắt có thể gặp áp lực suy yếu nhưng có thể giao dịch ổn định khi xem xét tất cả các nhân tố.

Phế chất lượng cao sẽ tăng thêm 10 USD/tấn và tuần thu mua phế tháng 7 có thể bắt đầu vào hôm thứ ba. Sự khác nhau mang tính khu vực có thể do nguồn cung vượt cầu ở phía tây dãy Rockies, sự tăng mạnh ở Midwest và quan điểm xáo trộn ở Southeast.

Một thương nhân tin rằng thị trường Southeast có thể khác và suy yếu cho tháng thứ hai liên tục. Trong tháng 6, phế vụn ổn định còn phế chất lượng cao tăng 10 USD/tấn ở Midwest trong khi hầu hết các nhà máy Southeast có thể mua tất cả các loại ở mức ổn định.

Với sự bảo trì tiếp tục ở nhà máy DRI của Nucor ở Louisiana không ảnh hưởng nhiều tới triển vọng phế tháng 7 do kế hoạch bảo trì 30 ngày đã được thông báo hồi tháng 4 giúp các nhà máy có thời gian tích trữ nguyên liệu.

Giá phôi thanh Châu Á tiếp tục suy yếu

Giá phôi thanh Châu Á giảm tuần thứ hai do người bán giảm giá chào và tiêu thụ suy yếu sau khi giá giao kỳ hạn giảm.

Chào giá cạnh tranh cho phôi thanh Q275 120/130 mm Việt Nam giao tháng 8 hôm thứ sáu ở mức 550 USD/tấn CFR Đông Á, giảm 5 USD/tấn so với tuần trước đó.

Chào giá cho phôi thanh Trung Quốc cũng giảm 5-15 USD/tấn xuống 550-560 USD/tấn CFR tuần này. Chào giá cho phôi thanh khác không có nhiều.

Mootjt lô hàng 10.000 tấn phôi thanh Q275 130mm được bán tuần qua ở mức 540 USD/tấn CFR Manila giao tháng 8. Tuy nhiên, các nguồn tin khác cho biết vẫn chưa nghe giao dịch.

Một chào mua được nghe ở mức 545 USD/tấn CFR Manila trong ngày thứ năm cho 5.000 tấn phôi thanh Q275 120/130mm nhưng không có giao dịch do phía nhà máy muốn bán khối lượng lớn, chi phí vận chuyển tăng 5 USD/tấn do cảng bị tắc nghẽn.

Không có giao dịch nào chốt mức 545 USD/tấn CFR do các thương nhân không muốn giảm giá dưới 545 USD/tấn.

Một thương nhân nghĩ rằng người mua chưa sẵn sàng tích trữ hàng do tiêu thụ nội địa chậm dù tồn kho không cao.

Giá HRC Mỹ tiếp tục tăng, thu hẹp chênh lệch giá với CRC

Giá HRC của Mỹ tiếp tục tăng cao vào thứ Sáu, thu hẹp chênh lệch giá với CRC.

Định giá HRC của Mỹ theo ngày tăng 1.75 USD/tấn lên 918.50 USD/tấn trong khi CRC giảm 3.50 USD/tấn xuống 1.005 USD/tấn. Chênh lệch giá giữa hai loại hiện tại là 86.50 USD/tấn và ở mức thấp nhất kể từ tháng 8/2011. Mức giá hiện tại tương phản hoàn toàn so với khi giá CRC chênh lệch 200 USD/tấn với HRC kể từ tháng 4/2016- tháng 12/2017.

HRC vẫn là sản phẩm mạnh nhất trong các loại thép tấm, được củng cố bởi sự hồi sinh tại các thị trường năng lượng. Điều này giúp các nhà máy tăng giá.

Một nhà máy đang cung cấp HRC với 920 USD/tấn nhưng các mức giá chung là 920-940 USD/tấn, theo một nguồn tin cho hay. Thị trường đang diễn ra chậm trước lễ ngày 04/7.

Có một số chào giá nhập khẩu mới có sẵn ở mức 790-800 USD/tấn vào thị trường Houston. Tuy nhiên, ít nhất một thương nhân quan tâm đến việc đưa nguyên liệu vào vùng Midwest.

Nguồn cung bổ sung trên thị trường tấm mạ trong24 tháng tới có khả năng giữ mức chênh lệch giữa giá cơ sở cho CRC, HDG và HRC.

Một trung tâm dịch vụ đã đồng ý rằng sẽ có rất nhiều công suất thép mạ và đang mong đợi chênh lệch giá HRC/CRC ở mức 80 USD/tấn vào Q2 năm sau.

Một nhà máy mini chào bán 920-930 USD/tấn .Sự thương lượng giảm 5-10 USD/tấn của HRC có giá hơn 900 USD/tấn ít hơn nhiều so với khi thị trường giao dịch dưới 400 USD/tấn như trước cuối năm 2015/đầu năm 2016.

Giá phôi thanh CIS ổn định do không có nhiều chào giá

Người mua tại thị trường phôi thanh Biển Đen đang chờ đợi nhiều chào giá hơn từ các nhà sản xuất CIS cho lô hàng tháng 8. Một chào giá được nghe trong vài ngày gần đây không thu hút người mua.

Các đơn hàng trước đây được đặt mua ở mức này nhưng gần đây người mua đã trở nên cảnh giác hơn. Thương nhân đang chào bán  538- 540 USD/tấn CFR Ai Cập, tương đương với 518- 520 USD/ tấn FOB, nhưng không có bất kỳ đơn hàng lớn nào.

Một số nhà máy CIS không chào bán trong khi các thành viên thị trường tìm kiếm giá 520 USD/tấn FOB, một thương nhân ở Trung Đông cho biết. Ông cho biết thêm giá phôi thanh ở mức 520 USD/tấn FOB và phải đối mặt với sự kháng cự từ phía người mua. Giá cân bằng ở mức 500- 505 USD/tấn FOB. Đây cũng là mức nhiều hơn hoặc ít hơn những gì người mua ở Thổ Nhĩ Kỳ có thể trả cho phôi thanh nhập khẩu.

Tunisia đã nhận được báo giá từ châu Âu và CIS ở mức 480 Euro/tấn (560 USD/tấn) CFR và 538- 545 USD/tấn CFR tương ứng.

Các chào hàng Châu Âu cũng được thấy ở Morocco với giá 475 Euro/tấn (554 USD/tấn) CFR. Một thương nhân địa phương cho biết họ có thể thương lượng chiết khấu nhẹ, nhưng thậm chí điều đó cũng không có khả năng thúc đẩy nhu cầu mua thêm khi nhu cầu khu vực chậm.

Các nhà máy Nga cắt giảm giá tấm mỏng, dự báo giá tháng 8 phục hồi

Các nhà máy Nga đã giảm giá tấm mỏng nội địa tháng 7 của họ với lý do khác nhau từ việc giá phân phối thấp hơn do hoạt động hạn chế tại một số thành phố lớn nhất của Nga trong thời gian diễn ra World Cup.

Việc cắt giảm giá cũng để bình thường hóa giá thép cuộn cán nóng trong nước trước đây tăng cao so với xuất khẩu.

Các nhà máy đã phản ứng trước thách thức nhu cầu tiêu thụ bị bóp méo bằng các mức giảm khác nhau. Một số doanh nghiệp chưa tích luỹ đủ đơn đặt hàng và vẫn có công suất dư để tận dụng, trong khi các doanh nghiệp khác tìm cách để tăng sản lượng xuất khẩu hoặc cắt giảm sản xuất do bảo trì và không cần phải nhận đủ đơn hàng. Kết quả là, tháng 7 sẽ chứng kiến chênh lệch bất thường - lên 1.500 Rubs/tấn (24 USD/tấn) cho thép nội địa.

Tấm cán nóng sản xuất tháng 7 được bán với giá 43.000-45.550 Rubs/ tấn (681- 721 USD/ tấn) cho vật liệu dày 2mm, và 42.500-44.840 Rubs/ tấn (673- 710 USD/ tấn) cho 4 mm giao cho Moscow có VAT.

Giá thấp nhất được gán cho hàng nhập khẩu của UKraina, trong khi phần lớn các nhà máy Nga nhắm tới giá chốt 37.000-37.900 Rubs/ tấn (586- 600 USD/tấn) cho 2mm và 36.500-37.300 Rubs/ tấn (578- 591 USD/ tấn) cho loại 4mm. Giá mới cho thấy sự suy giảm khoảng 2.500 Rubs/ tấn (40 USD/tấn) so với tháng trước.

Việc giảm giá phần nào do các hạn chế khác nhau được hàng chục chính quyền địa phương tại Nga áp dụng trong suốt thời gian của World Cup. Những hạn chế này ảnh hưởng đến một số ngành công nghiệp nhất định và quá trình giao hàng không thể diễn ra.

"Tuy nhiên, chúng tôi đang thấy sự cải thiện trong cơ hội xuất khẩu và giá xuất khẩu đã tăng lên, và chúng tôi dự định xuất khẩu nhiều hơn trong tháng này. Những dấu hiệu này cho chúng ta biết rằng giá tháng 8 có khả năng sẽ tăng trở lại ", nguồn tin cho biết.

Giá thép theo đồng dolla đã giảm đáng kể 50 USD/ tấn trên tháng do biến động tỷ giá ngoại hối. Chênh lệch giá HRC CPT Maxcova so với giá xuất khẩu FOB Biển Đen tầm 20 USD/tấn. Một tháng trước, khi các nhà máy đã hoàn thành giá tháng 6 của họ, chênh lệch giá tầm 70 USD/tấn do sự suy yếu đáng kể của giá FOB Biển Đen.

Vì những lý do tương tự, các nhà máy cũng đã điều chỉnh giảm giá của họ đối với thép cây tháng 7. Chúng giảm xuống 1.500 Rubs/tấn (24 USD/tấn) xuống mức 37.000-37.500 Rubs/tấn (586-594 USD/tấ) cho loại 12 mm và 36.600-37.100 Rubs/tấn (580- 588 USD/tấn) đối với đường kính 14 mm, giao tới Maxcova đã có thuế. 

Áp lực bán hàng chậm gây áp lực cho giá xuất khẩu thép cây của Thổ Nhĩ Kỳ

Thị trường thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục giảm nhẹ vào thứ Sáu, do lượng mua hạn chế đối với hàng xuất khẩu khiến một số nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ giảm giá chào bán.

Giá chào bán vào khoảng 555 USD/tấn FOB, với nhu cầu thấp khiến một số nhà máy phải kích cầu thông qua các mức chào bán thấp hơn, theo một số nguồn tin.

Chào giá từ một số nhà sản xuất lớn cho khối lượng lớn đã được nghe khoảng 550 USD/tấn FOB, các nguồn tin. Có một số đơn hàng nhỏ vào Israel và Yemen, với một số được bán cho Canada.

"Nhu cầu tiêu thụ rất hạn chế, và chắc chắn không đủ cho toàn bộ vật liệu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ", một nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ cho biết.

Một nguồn tin Thổ Nhĩ Kỳ cho biết doanh thu khoảng 550 USD/tấn FOB có thể đạt được ngay cả đối với một số lượng nhỏ hơn, trong khi doanh số bán hàng lớn trong một số trường hợp thậm chí có thể khoảng 545 USD/ tấn.

Tuy nhiên, một đại lý của Thổ Nhĩ Kỳ cho biết chỉ có một nhà sản xuất thép Thổ Nhĩ Kỳ bán với giá 550 USD/tấn trong một nỗ lực để tạo ra sự quan tâm mua mạnh hơn trên thị trường.

Trong khi đó, hầu hết các nhà máy khác vẫn bán trên mức giá này, theo một số nguồn tin công nghiệp, cho thấy mức giá chào bán ở một số khu vực cao tới 565 USD/tấn FOB do họ tiếp tục duy trì giá xuất khẩu với mua trong nước chậm chạp.

"Thị trường đã chết, không có chuyển động. Ngay cả người mua địa phương cũng không thể hiện bất kỳ nhu cầu nào", một thương gia Thổ Nhĩ Kỳ nói về thị trường thép cây trong nước.

Giá tấm mỏng Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục tăng, người mua thận trọng

Giá chào bán tấm mỏng của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tăng mạnh trong tuần qua, trong bối cảnh giá chào bán của các nhà máy CIS cao hơn, nhưng nhu cầu của người dùng cuối không thấy sự phục hồi đáng kể mà một số dự đoán sau cuộc bầu cử tổng thống ngày 24/6 và nhu cầu nhập khẩu của Mỹ giảm nhẹ.

Các nhà máy đã hoàn thành các đơn đặt hàng HRC tháng 7 và bán được số lượng đáng kể cho thị trường xuất khẩu, kéo giá chào bán trong nước của họ lên mức 630-640 USD/ tấn cho tháng 8, trong khi  giá chào xuất khẩu giảm khoảng 10 USD/tấn FOB. Tuy nhiên, các nguồn thị trường báo cáo giá giao dịch trong nước hoặc xuất khẩu thấp hơn trong suốt cả tuần.

"Tôi tin rằng mức giá chào bán mới là đầu cơ, vì không có bất kỳ sự phát triển nào trong thị trường trong nước và toàn cầu để hỗ trợ giá này", một nguồn tin cho biết. Các giao dịch xuất khẩu thường ở mức thấp hơn trong phạm vi cung cấp của các nhà máy.

"Tôi cũng đã nghe từ một trong những đồng nghiệp của tôi ở Tây Âu rằng một nhà sản xuất HRC lớn đã cung cấp HRC cho EU với giá 605 USD/ tấn FOB vào đầu tuần", ông nói thêm rằng EU đã đưa ra thuế tự vệ đáp trả thuế 232 Mỹ, và sự chậm trễ mùa hè đã bắt đầu ảnh hưởng đến các chuyến hàng Thổ Nhĩ Kỳ đến khu vực này.

HRC cung cấp từ CIS cho Thổ Nhĩ Kỳ cũng đạt 595 USD/tấn CIF trong những ngày gần đây, sau một số giao dịch ở mức 580- 585 USD/tấn CIF, một nguồn tin cho biết.

Giá thép cuộn cán nguội của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cũng tăng mạnh trong suốt cả tuần, chủ yếu dựa trên giá HRC mạnh. Một nhà sản xuất có trụ sở tại vùng Marmara bắt đầu cung cấp CRC cho cả thị trường trong nước và xuất khẩu với giá 710 USD/tấn vào thứ Tư. Các nhà sản xuất khác cũng kéo giá niêm yết của họ lên mức 720- 740 USD/ tấn xuất xưởng.

Một số nhà sản xuất HDG lớn của Thổ Nhĩ Kỳ cũng phản ánh sự gia tăng chi phí HRC trong giá niêm yết của họ và bắt đầu cung cấp DX51D phủ 70-100 g/m2 0.50 mm ở mức 795- 820 USD/tấn ở thị trường trong nước và xuất khẩu, tăng 30-40 USD/tấn trong tuần.

NSSC tăng giá thép không gỉ trong nước cho tháng 6- tháng 8

Nippon Steel & Sumikin Stainless của Nhật Bản đã quyết định nâng giá thép thanh austenitic nội địa lên mức 40.000 yên/tấn (362 USD tấn) và dây thép ferritic khoảng 25.000 Yên/tấn cho các hợp đồng tháng 6-8 do chi phí đầu vào cao hơn.

Giá niken trung bình ngày 24/3 - 25/6 tăng lên 6.57 USD/lb từ mức 6.07 USD/lb trong ba tháng trước đó, trong khi giá ferrochrome tăng lên 150 cents/lb từ 126 cents/lb, nhà sản xuất cho biết trong một tuyên bố.

Điều này cũng làm tăng thêm 30.000 Yên tấn cho chi phí dây thép austenitic và 15.000 Yên /tấn cho dây thép ferritic thông qua công thức phụ phí.

Công ty cũng bổ sung thêm 10.000 Yên/tấn vào giá của cả hai sản phẩm để phản ánh sự gia tăng chi phí đầu vào, chẳng hạn như LNG, dầu và vận chuyển hàng hóa.

Đối với các hợp đồng tháng 3 - tháng 5, NSSC đã tăng giá khoảng 10.000 Yên/tấn từ giai đoạn ba tháng trước đó để phản ánh chi phí cao hơn của điện cực, vật liệu chịu lửa và các vật liệu phụ trợ.

NSSC cho biết, nhu cầu về thanh thép không gỉ đã được củng cố từ ngành ô tô và xây dựng trong những tuần gần đây và các nhà chế biến thứ cấp cũng đang duy trì tốc độ tăng cao.

Các nhà máy sản xuất thép dây của NSSC tại Hikari hoạt động ở miền Tây Nhật Bản dự kiến ​​sẽ tiếp tục hoạt động hết công suất từ ​​tháng 7 đến tháng 9.

Tuy nhiên, công ty cũng lưu ý rằng họ đang tiếp tục theo dõi chặt chẽ việc nhập khẩu và giá cả thép không gỉ, và sẽ có "hành động thích hợp" nếu phát hiện bất kỳ bằng chứng về giao dịch không công bằng.

Nhật Bản nhập khẩu 719 tấn thép không gỉ trong tháng 5, giảm 21.5% so với cùng kỳ năm ngoái và 22.9% so với tháng 4, theo Cục thống kê Nhật Bản.

Giá thép dầm hình H Đông Nam Á tăng trong tháng 6

Thị trường nhập khẩu thép dầm bản rộng Đông Nam Á tăng trưởng trong bối cảnh giá chào bán cao hơn trong tháng 6, mặc dù triển vọng trước đó là tâm lý thị trường suy yếu và giá sẽ giảm trong tháng.

"Tôi đoán hầu hết nhận định của thị trường là giá Trung Quốc sẽ suy yếu trong những tháng mùa hè, nhưng nó vẫn còn rất mạnh", một thương nhân khu vực cho biết.

Giá chào bán cho thép dầm bản rộng Thái Lan và Hàn Quốc là 690 USD/tấn CFR Singapore ngày thứ sáu, tăng 10 USD/tấn so với tháng trước.

Tuy nhiên, một hợp đồng đã được ký kết cho 1.400 tấn S355 từ Nhật Bản với giá 730 USD/tấn CFR Singapore vào cuối tháng 6.

Các nhà máy thép dài EU tìm kiếm giá cao hơn

Các nhà máy thép dài EU đang tăng giá chào bán dựa vào chi phí đầu vào gia tăng do người mua trở lại thị trường sau giai đoạn thanh lý tồn kho bắt đầu trong tháng 3.

Nhà máy thép thanh thương phẩm lớn nhất EU là Beltrame tăng giá chào tháng 7 cho tất cả các sản phẩm thêm 20 Euro/tấn trên toàn Châu Âu.

Một nhà máy Ý tăng giá chào bán do chi phí nguyên liệu thô và năng lượng cao.

Giá phế tăng cộng với chi phí nguyên liệu thô tăng gây áp lực cho các nhà máy. Để cân bằng tác động này và duy trì tính cạnh tranh, phía công ty tăng giá cơ bản cảu các sản phẩm.

Theo nguồn tin, giá thép thanh thương phẩm Bắc Âu tầm 130 Euro/tấn (151.71 USD/tấn).

Các nguồn tin cho biết mức tăng tương tự được áp dụng cho thép dài, với nhiều nhà cung cấp trích dẫn về chi phí đầu vào cũng như hậu cần.

Theo một nguồn tin, chào giá thép hình loại 1 tăng lên 590-595 Euro/tấn từ mức 580-590 Euro/tấn tuần trước.

Tất cả các nhà máy thông báo tăng giá 20-30 Euro/tấn cho tháng 7. Chào giá tuần này tăng 10 Euro/tấn, và có thể tăng 20 Euro/tấn vào tuần tới.

Có nhiều nhân tố hỗ trợ mức tăng mới như phế, năng lượng cũng như hậu cần. Tháng qua, thị trường suy yếu nên mức tăng mới là cần thiết. Cộng vào đó là sức mua vẫn tích cực.

Các nguồn tin cho biết thị trường thép cây đã tăng trưởng trở lại, với giá tại Benelux và Đức tăng lên 290 Euro/tấn.

Các nhà máy đã có đơn hàng tốt cho tới tháng 7 và 8, nhưng hầu hết trong số họ đã đóng cửa tháng nay trong hè nên đơn hàng thực sự họ chỉ mở bán 4 tuần thay vì 8 tuần, một khách hàng Benelux cho biết.

Giá xuất khẩu HRC Trung Quốc ổn định dựa vào thị trường nội địa tăng trưởng

Giá HRC xuất khẩu Trung Quốc ổn định trong ngày thứ sáu theo sự gia tăng của giá giao kỳ hạn.

Đối với HRC SS400, giá chào các nhà máy Trung Quốc vẫn ở mức 600-610 USD/tấn FOB Trung Quốc. Tuy nhiên, có rất ít nhu cầu tiêu thụ được nghe trên thị trường.

Một nhà máy phía đông đang thu gom chào mua từ các khách hàng Việt Nam ở mức 600 USD/tấn CFR Việt Nam. Dù có rất ít nhu cầu tiêu thụ song giá chào đó là mức thấp nhất nhà máy ông có thể bán.

Nhiều khách hàng Việt Nam được nghe đã đặt mua tổng cộng 3.000 tấn HRC SS400 ở mức 600 USD/tấn CFR Việt Nam trong khi số khác đang nhắm tới mục tiêu giá thấp hơn.

Đối với SAE1006, một nhà máy Ấn Độ đang tìm cách bán đơn hàng với tối thiểu 50% loại dày 2mm ở mức 620 USD/tấn CFR Việt Nam. Dù vậy, các trung tâm giao dịch chào bán nguyên liệu cùng loại Trung Quốc ở mức 618 USD/tấn CFR Việt nam và không có nhu cầu.

Đối với thị trường Malaysia, một nhà máy Đài Loan chào bán HRC mức 650 USD/tấn CFR Malaysia. Theo một thương nhân, giá chào mua cao nhất từ một người mua tầm 640 USD/tấn CFR Malaysia và cho đơn hàng lớn, giá chào mua thấp hơn tầm 630 USD/tấn CFR Malaysia.

Tại Thượng Hải, giá giao ngay HRC Q235 5.5mm tăng 10 NDT/tấn lên 4.250-4.270 NDT/tấn (642-645 USD/tấn) xuất xưởng có thuế. Tại sàn kỳ hạn, hợp đồng HRC giao tháng 10 chốt tăng 51 NDT/tấn lên 3.926 NDT/tấn.

Giá xuất khẩu HDG Trung Quốc tăng trước hè

Giá xuất khẩu HDG Trung Quốc tăng trong nửa đầu tháng 6 và giảm lại về cuối tháng theo giá HRC cộng với tồn kho gia tăng và sức mua suy yếu trong mùa tiêu thụ thấp điểm.

Giá xuất khẩu HDG 140g kẽm/m2 từ một nhà máy lớn ở đông bắc Trung Quốc nghe tầm 720 USD/tấn FOB giao tháng 9, nhưng chào giá HDG phủ 120g kẽm/m2 tầm 700-705 USD/tấn FOB.

Vài giao dịch nghe chôt smuwsc 695 USD/tấn FOB cho HDG phủ 120g kẽm/m2. Các khách hàng ngoài nước không sẵn sàng đặt hàng ở mức giá cao 700 USD/tấn FOB tuần này do sự suy yếu của thị trường nội địa.

Nhu cầu tiêu thụ suy yếu do mưa và các nhân tố kinh tế tiêu cực. Do đó, các thương nhân Trung Quốc cần giảm giá nếu họ muốn chốt giao dịch.

Giá HDG DX51D dày 1mm tại Thượng Hải tăng 20 NDT/tấn so với cuối tháng 5 lên 3.090-5.110 NDT/tấn (769-772 USD/tấn) có thuế.

Giá nội địa gặp áp lực suy yếu do nhu cầu tiêu thụ hiện tại suy yếu và tồn kho tăng trong mùa nắng nóng nhiều mưa.

Tuy nhiên, giá sẽ không giảm mạnh trong ngắn hạn do chi phí sản xuất vẫn cao dù có chút suy yếu.

Tại Thượng Hải, giá giao ngay HRC Q235 5.5mm tăng 10 NDT/tấn lên 4.250-4.270 NDT/tấn (642-645 USD/tấn) xuất xưởng có thuế.

Giá thép cây xuất khẩu Trung Quốc ổn định

Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc ổn định ngày thứ ba liên tiếp tính tới thứ sáu tuần trước do các nhà máy giữ giá chào bán không đổi dù người mua im ắng trong bối cảnh giá nội địa tăng trưởng hơn.

Tại thị trường Bắc Kinh, giá giao ngay thép cây HRB400 18-25mm tăng 10 NDT/tấn lên 4.055 NDT/tấn (613 USD/tấn) xuất xưởng trọng lượng thực tế có thuế.

Hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 10 trên sàn SHFE chốt tăng 63 NDT/tấn (1.7%) lên 3.807 NDT/tấn (576 USD/tấn).

Hai nhà xuất khẩu lớn vẫn giữ giá ổn định mức 550-560 USD/tấn FOB. Chào giá các nhà máy ổn định và họ do dự bán hàng, một khách hàng Singapore cho hay.

Tại Singapore, giá thép cây Trung Quốc được chào ở mức 575-580 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, không đổi. Giá tương đương 572-577 USD/tấn FOB Trung Quốc với phí vận chuyển 20 USD/tấn và 3% chênh lệch khối lượng.

Một nhà môi giới cho hay giá chào mua tầm 540-550 USD/tấn CFR Singapore cho thép cây Trung Quốc, và một nhà chế tạo thép cho biết giá lý tưởng để mua là 535-545 USD/tấn CFR cho thép cây Qatari, ổn định.

Tại thị trường Hồng Kông, không có giá chào thép cây Qatari. Giá chào mua từ các thương nhân tầm 565 USD/tấn CFR và 568-570 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế.

Các nhà máy Trung Quốc chào bán ít nhất 570-575 USD/tấn CFR, không đổi so với ngày trước. Giá tương đương 557-562 USD/tấn FOB Trung Quốc.