Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Tuần 39/2018: Dự báo xu hướng thép TG

THÉP DÀI

* Giá thép dài Châu Âu vẫn ổn định trong khi các nhà máy chật vật để đạt được giá mục tiêu của họ cho tháng 9. Niềm tin tiếp tục giảm thêm nữa, do đà tăng giá đã được kỳ vọng sau mùa hè trì trệ vẫn chưa được nhìn thấy.

Thị trường thép hình loại 1 đã tăng nhanh vào đầu tháng nhưng giá giao dịch vẫn duy trì ổn định ở mức khoảng 615-620 euro/tấn trên khắp khu vực châu Âu trong hai tuần qua. Giá thép cây rebar cơ bản ở Đức và khu vực Benelux tiếp tục ở mức 290 euro/tấn, cùng một mức giá trong vài tuần qua.

Các nhà cung cấp muốn tăng lên 620-625 euro/tấn nhưng thị trường chưa sẵn sàng chấp nhận mức giá này. Giá thép dài tháng 10 sẽ phụ thuộc vào phế và nhu cầu và có thể duy trì ổn định với các nguyên tắc cơ bản khá cân bằng.

* Thị trường thép cây Mỹ đang dò tìm hướng đi sau chính sách tăng gấp đôi thuế quan lên 50% cho thép nhập khẩu từ Thổ Nhĩ Kỳ của Tổng thống Trump liên quan tới chính sách 232. Tâm lý thị trường xáo trộn trước khả năng ảnh hưởng của thuế này tới giá thép Mỹ.

Giá thép cây nội địa Mỹ ổn định nhiều tháng qua, nhưng việc tăng thuế cộng với giá phế giảm trung bình 20 usd/tấn đối với phế vụn và 10 usd/tấn đối với phế chất lượng từ đầu tháng 8 có thể dẫn tới nhiều đầu cơ liên quan tới xu hướng giá tương lai.

Chắc chắn EU và Mexico sẽ trở lại song chưa biết ở mức giá này. Các nhà máy sẽ cân nhắc giảm giá theo giá phế, cho phép giá ổn định trong tháng 8. Tăng giá trong tháng 8 là điều khó, nhưng không rõ điều này có cản trở giá tăng vào tháng 9 hay không.

Mỹ có khả năng bỏ thuế cho EU sau cuộc họp với chủ tịch Jean-Claude Juncker của EC cuối tháng 7. Nếu không bỏ thuế thì Mỹ có thể lại đóng cửa nhập khẩu. Điều này có thể dẫn tới nguồn cung thắt chặt vào Q4, hoặc Q1/2019, gia tăng áp lực giá tăng vào các tháng tới. Tuy nhiên, giá phế dự báo gặp áp lực giảm trong tháng 9. Do đó, giá dự báo đi từ ổn định tới tăng 10-20 usd/tấn.

* Ở Thổ Nhĩ Kỳ trong khi những biến động tỷ giá hối đoái mạnh mẽ ở Thổ Nhĩ Kỳ dường như đã dịu đi trong thời gian gần đây, nhu cầu trong thị trường nội địa vẫn chậm chạp trong bối cảnh thận trọng liên tục giữa người mua và sụt giảm nhu cầu trong ngành xây dựng. Mặc dù áp lực giảm giá của người mua xuất khẩu đối với giá nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cũng đang tiếp diễn, giá phế nhập khẩu mạnh hơn và các chi phí đầu vào cao khác của các nhà máy đã hỗ trợ giá của nhà máy.

Giá xuất khẩu thép cây rebar của Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục giảm trong khi giá phế nhập khẩu tiếp tục được hỗ trợ hơn nữa. Giá rebar xuất khẩu sang Anh là 502 usd/tấn FOB cho bất kỳ khối lượng nào vượt quá 3.000 tấn. Các nhà máy chào giá chính thức 510-520 usd/tấn FOB, nhưng thực sự chỉ có thể bán với giá 500-505 usd/tấn FOB.

Trong khi đó giá thép dài  trong nước đã được điều chỉnh do biến động tiền tệ. Giá bán mới cho thanh tròn trơn của Kardemir là 3.357 lira/tấn (530usd/tấn) xuất xưởng, giá rebar giảm xuống mức 3.340 lira/tấn (527usd/tấn) xuất xưởng. Giá niêm yết của cuộn trơn 5,5 mm đã giảm xuống mức 3.770 lira/tấn (580 usd/tấn) xuất xưởng, giá cuộn  trơn 6 mm-32 mm giảm còn 3.590-3.610 lira/tấn (568-571 usd/tấn) xuất xưởng.

Izmir Demir Celik (IDC), có trụ sở tại khu vực Aegean của miền tây Thổ Nhĩ Kỳ, đã tăng giá bán thêm 50 lira/tấn vào chiều Thứ Sáu, theo đó giá thép cây đường kính 12-32 mm của IDC lên mức 3.900 lira/tấn, tương đương 525 usd/tấn chưa bao gồm VAT.

Mức tăng gần đây của thuế quan Hoa Kỳ đối với Thổ Nhĩ Kỳ đến 50% từ 25% hầu như đóng cửa điểm đến lớn nhất cho thép cây của Thổ Nhĩ Kỳ. Một lần nữa, Châu Âu và Châu Á sẽ trở thành mục tiêu cho nguyên liệu còn lại.

Dự báo giá xuất khẩu tháng 9 giảm khoảng 10-20 USD/tấn xuống 510 usd/tấn FOB.

THÉP DẸT

* Thị trường thép cuộn công nghiệp Nam Âu vẫn đang trong trạng thái chờ đợi với người mua tiếp tục không tham gia trong khi các nhà máy vẫn duy trì giá chào bán vững chắc.Hiện tại, các nhà máy ở Nam Âu đang chào bán HRC với giá xuất xưởng 550 euro/tấn cho thị trường giao ngay giao tháng 11 nhưng một số giao dịch chốt ở mức thấp hơn 5 euro/tấn.Nhà sản xuất thép lớn nhất Italy, Ilva, được cho là đang cung cấp HRC với giá khoảng 150 euro/tấn cơ bản xuất xưởng. Về phía nhập khẩu, các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm giá chào khoảng 20 euro/tấn trong hai tuần qua, từ 550 euro/mt CFR cảng Italy còn 530 euro/tấn CFR cảng Italy cho lô hàng tháng 11.

Tại Bắc Âu, thị trường thép cuộn vẫn đang chờ đợi nhu cầu tăng lên sau giai đoạn mùa hè, trong khi các chào giá nhập khẩu cạnh tranh đang tác động vào thị trường.

Một thương nhân cho biết đã thấy cuộn cán nóng CFR Antwerp với giá 510 euro/tấn (594,75 usd/tấn)– một mức chênh lệch giảm 59 euro (68 usd) so với giá xuất xưởng tại Ruhr. Tuy nhiên các trader khác chưa thấy mức giá thấp đó.Với một nhà sản xuất lớn ở châu Âu tăng giá vào cuối tháng 8 cho HRC quý 4 lên 600 euro/tấn xuất xưởng Ruhr (699 usd/tấn), các nguồn tin cho biết mục tiêu này vẫn là "mơ tưởng" vì kỳ vọng của nhu cầu người dùng cuối đã không thành hiện thực. Một nguồn tin cho biết, hiện nay nhà máy này được nghe nói là chấp nhận không chính thức giá 580-590 euro/tấn xuất xưởng Ruhr (676-688 usd/tấn) trong Q4.

Thuế tự vệ ở Châu Âu đã thúc đẩy tâm lý thị trường thép cuộn trong tháng 8.  Ngày 19/7 đã bắP đầu áp dụng các biện pháp tự vệ tại EU thấy sự khởi đầu của biện pháp bảo vệ tạm thời tại EU, song việc Mỹ hủy bỏ thuế nhập khẩu ô tô Châu Âu và các nhà máy ở Thổ Nhĩ Kỳ không giảm cung cấp xuất khẩu sang Châu Âu mặc dù sự mất giá của đồng lira giúp giá thép cuộn Châu Âu giữ ở mức cao.

Hạn ngạch thuế quan đối với thép nhập khẩu vào EU có hiệu lực vào cuối tháng 7, và khối lượng cho cả ba sản phẩm vẫn có thể được lấp đầy.

Trong con số  ban đầu là 4,2 triệu tấn HRC có thể được nhập khẩu cho đến ngày 3 tháng 2 mà không áp thuế 25%, 3,7 triệu nữa vẫn có thể được nhập khẩu. Đối với CRC, 1,19 triệu tấn vẫn có thể được nhập khẩu từ con số ban đầu 1,3 triệu tấn và khoảng 1,89 triệu tấn sản phẩm tráng kim loại có thể được nhập khẩu từ con số ban đầu là 2,1 triệu tấn.

Người mua vẫn thận trọng ngay trước sự bắt đầu các biện pháp tự vệ và nguồn tin cho biết lượng nhập khẩu đã giảm một phần trong mùa hè cộng với giá chào bán nhập khẩu rẻ hơn từ Thổ Nhĩ Kỳ nhiều khả năng sẽ tiếp tục tác động vào thị trường trong vài tuần tới.

Do đó, dự báo giá ổn định đến tăng nhẹ 10 euro/tấn từ cuối tháng 9 đến tháng 10.

* Tại Mỹ người mua HRC của Mỹ vẫn đang trong tâm lý chờ đợi với các nhà máy trong nước trong tuần này do thiếu hoạt động tiếp tục gây áp lực giảm giá.

Thị trường vẫn hầu như ổn định so với tuần trước với chào gián HRC vẫn trong phạm vi 820-880 usd/st. Một nhà máy tích hợp vẫn đang chào giá ở mức cao tới 900 usd/st nhưng sẵn sàng bán với giá 880 usd/st. Tuy nhiên, phần lớn các hoạt động thị trường đã xảy ra ở mức 840-850 usd/st nhưng vẫn còn hạn chế. Mức thấp của phạm vi giá HRC, ở mức 800-820 usd/st, có thể có sẵn cho mức mua 5.000-10.000 st nguyên liệu tại thị trường giao ngay, nhưng thu mua các lô hàng 500-1000 tấn ngắn có khả năng sẽ trả 820-830 usd/st.

Trong khi đó giá thép cuộn cán nguội và cuộn mạ kẽm nhúng nóng của Mỹ giảm do các nhà máy tiếp tục đối phó với nhu cầu tiêu thụ thấp và nỗ lực của Mỹ để duy trì đủ đơn đặt hàng. Giá CRC trong phạm vi giữa 940 usd/st và 960 usd/st. Còn Giá HDG trong nước là 920-950 usd/st.

Nhu cầu dùng cuối cùng trong 7 tháng đầu năm 2018 đối với các thị trường tiêu thụ CRC và HDG giảm đáng kể từ năm 2017, theo số liệu của AISI được Goldman Sachs biên soạn trong một báo cáo nghiên cứu. Thị trường xuất khẩu cũng giảm đáng kể khi các lô hàng giảm 6,2%, tương đương 382.000 st, so với cùng kỳ.

Thời gian giao hàng tại các nhà máy nội địa hầu như không thay đổi so với tuần trước, với thời gian giao hàng HRC hiện tại trung bình 4,6 tuần, giảm nhẹ so với 4,7 tuần ngày 12/9. Thời gian giao hàng CRC ổn định trong tuần tại 5,7 tuần, trong khi thời gian giao hàng HDG là 6,3 tuần, giảm từ 6,4 tuần trong tuần ngày 12 tháng 9, theo Platts.

nhu cầu tiêu thụ vẫn chỉ là mua khi cần với người mua ngồi bên lề thị trường chờ đợi để xem liệu giá có giảm sâu hơn hay không. Tuy nhiên, sự sụt giảm tương đối trong thu mua cùng với mức giá cao hơn đã thấy trước đó trong mùa hè đã dẫn đến hàng tồn kho thấp hơn. Có đồn đoán trên thị trường rằng giá HRC đã chạm đáy, hoặc gần chạm đáy trong thời gian này.Do đó dự báo giá HRC sẽ bắt đầu duy trì ổn định đến tăng nhẹ 10 usd/st.

* Quyết định của Bộ Thương mại Thổ Nhĩ Kỳ áp dụng mức thuế 25% trong vòng 200 ngày tới nếu nhập khẩu một số sản phẩm thép và thiết bị đường sắt vượt quá hạn ngạch hiện tại có vẻ như là trò đùa đối với các nhà sản xuất và những nhà tham gia thị trường Thổ Nhĩ Kỳ. Hạn ngạch này khó có khả năng bị vượt quá trong điều kiện thị trường chậm chạp hiện nay.

Trong khi áp lực giảm giá lên tấm mỏng của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ vẫn tiếp tục do nhu cầu thấp trên thị trường trong nước, các chào giá nhập khẩu thấp hơn gần đây từ CIS đã tăng thêm áp lực hơn nữa. Giá thép cuộn cán nóng tại Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 575-580 usd/tấn xuất xưởng thứ Sáu, tùy thuộc vào sản lượng, trong khi giá xuất khẩu giảm giảm xuống dưới 570 usd/tấn FOB và kết thúc ở mức 565 usd/tấn FOB trong tuần vừa qua. Chào bán nhập khẩu đến Thổ Nhĩ Kỳ từ khu vực CIS đã giảm xuống mức 550- 560 usd/tấn CFR trong những ngày gần đây, trong bối cảnh nhu cầu thấp và kỳ vọng giá thấp hơn giữa những người mua ở Thổ Nhĩ Kỳ.

Trong khi đó, khoảng cách giữa giá CRC và HDG nội địa Thổ Nhĩ Kỳ thu hẹp hơn nữa, khi giá HDG tiếp tục giảm nhẹ với chiết khấu. Chào giá của các nhà cung cấp CRC của Thổ Nhĩ Kỳ tương đối ổn định với mức giá 640- 680 usd/tấn xuất xưởng, trong khi các nhà máy cuộn mạ Thổ Nhĩ Kỳ đã chào giá DX51D HDG với lớp mạ kẽm 100 gram một mét vuông, 0,50 mm, ở mức 710-740 usd/tấn xuất xưởng cho thị trường trong nước hôm thứ Sáu.

Đồng Lira sẽ còn gây sức ép cho thị trường, song với hạn ngạch HRC của EU cao hơn 10% so với năm ngoái, doanh số xuất khẩu sang EU dự kiến sẽ tăng trở lại sau mùa lễ. Điều này sẽ hỗ trợ giá phần nào. Do đó, dự báo giá xuất khẩu HRC ổn định mức 600 usd/tấn.

* Các nhà xuất khẩu thép cuộn CIS tại thị trường Biển Đen đang bước vào giai đoạn ngày càng không chắc chắn trên thị trường xuất khẩu của họ do người mua chủ chốt - Thổ Nhĩ Kỳ - đang đẩy mạnh các biện pháp chống nhập khẩu, trong khi các nhà máy Trung Quốc lại bắt đầu giành lấy thị phần ở một số thị trường châu Á.

HRC của Nga từ Viễn Đông đã giảm 5 USD trong tuần này xuống còn 570 USD/tấn CFR Việt Nam (550 USD/tấn FOB Vladivostok). Điều này có nghĩa là mức giá hỏi mua cho Biển Đen có thể là tối đa là 530 USD/tấn FOB. Trong khi đó, giá chào bán chính thức từ hai nhà sản xuất thép dẹt của Nga dao động từ 540-545 USD/tấn FOB Biển Đen.

Giá hỏi mua cho các cuộn nhỏ từ Nga ở mức 530 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ, tương đương 515 USD/tấn FOB Black Sea, giá hỏi mua cuộn lớn  sẽ thêm 10-15 USD/tấn. Giá hỏi mua từ Thổ Nhĩ Kỳ đối với HRC của Ukraina thậm chí còn thấp hơn, ở mức 520 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ.

Lãi suất cao trong nước và sụt giảm lira Thổ Nhĩ Kỳ đang gây ra suy thoái kinh tế, điều này trực tiếp chuyển thành tiêu thụ và nhập khẩu thép thấp hơn. Điều này có thể có hậu quả rất tiêu cực đối với các nhà sản xuất thép dẹt CIS.

Với biến động tỷ giá và sự không chắc chắn tại Thổ Nhĩ Kỳ, thị trường xuất khẩu thép cuộn CIS sẽ còn gặp áp lực kéo giá giảm xuống 10-20 USD/tấn trong tháng 9.

SẢN LƯỢNG THÉP THÔ

Theo thống kê của Hiệp hội Thép thế giới (worldsteel), sản lượng thép thô của Ấn Độ là 9 triệu tấn trong tháng 7, tăng 8% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thép thô toàn cầu là 105,5 triệu tấn trong tháng 7, tăng 5,8% so với cùng kỳ năm ngoái.

Trong đó, Trung Quốc xếp thứ nhất với khoảng 81 triệu tấn, tăng 7,2% so với cùng kỳ; Nhật Bản đứng thứ hai với khoảng 8,4 triệu tấn, giảm so với cùng kỳ năm trước; Mỹ đứng thứ ba với khoảng 7,3 triệu tấn, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước; tiếp theo là Hàn Quốc với khoảng 6,2 triệu tấn; theo sau là Thổ Nhĩ Kỳ với khoảng 3 triệu tấn; kế tiếp là Brazil với khoảng 3 triệu tấn, tăng 6,7% so với cùng kỳ.

Dự báo sản lượng toàn cầu sẽ tiếp tục tăng trong vài tháng tới khi các nhà máy Trung Quốc tận dụng lợi nhuận cao hơn và tăng sản lượng trước chiến dịch hạn chế mùa đông. Đồng thời, mức thuế nhập khẩu thép của Mỹ, cùng với giá cao, sẽ tiếp tục khuyến khích đầu ra của Mỹ.

Tuy nhiên, sản lượng tăng được hạn chế phần nào bởi chính sách môi trường kiểm soát sản lượng của Trung Quốc. Do đó, sản lượng thép thô tháng 8 dự báo tăng thêm khoảng 1 triệu tấn.

Trong khi đó năng lực sản xuất thép toàn cầu dự kiến ​​sẽ tăng gần 52 triệu tấn trong giai đoạn 2018-2020, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế cho biết trong báo cáo những diễn biến Công suất sản xuất thép gần đây.

Báo cáo được đưa ra trước Diễn đàn toàn cầu của OECD về công suất thép dư thừa dự kiến diễn ra từ ngày 17-18 tháng 9 và là một phần trong động lực tiếp tục của OECD nhằm giảm công suất dư thừa, vốn đạt tới 561 triệu tấn trong năm 2017.

Hiện tại, 39 triệu tấn công suất bổ sung đang trong giai đoạn lên kế hoạch, có khả năng đi vào hoạt động trước năm 2020.

Trung Đông dự kiến ​​sẽ chứng kiến sự tăng mạnh trong giai đoạn này, với 31,5 triệu tấn công suất hiện đang được lên kế hoạch hoàn thành vào năm 2020. Khu vực này đã trải qua giai đoạn mở rộng nhanh chóng từ năm 2007 đến nay, với tổng công suất mở rộng từ 24 triệu tấn lên 63,7 triệu tấn vào năm 2017.

Iran là động lực chính của việc mở rộng năng lực sản xuất thép ở Trung Đông. Nước này dự kiến ​​sẽ đạt tổng công suất 52,8 triệu tấn vào năm 2020, tăng từ 28,2 triệu tấn trong năm 2016.

Châu Á cũng có 19 triệu tấn công suất mở rộng đang được triển khai, với quy hoạch nhiều hơn, có thể đưa tổng số lên gần 24 triệu tấn trong giai đoạn 2018-2020. Với việc mở rộng công suất dự kiến ​​ở Ấn Độ, có một gợi ý rằng nó có thể là nhà sản xuất thép lớn thứ hai thế giới trong vòng vài năm tới.

Châu Phi hiện đang có 5.9 triệu tấn mở rộng đang được triển khai, với phần lớn các khoản đầu tư này tập trung ở các nước Bắc Phi. Chúng bao gồm nhà máy EAF 2,3 triệu tấn mới của Tosyali ở Algeria, dự kiến ​​sẽ đi vào hoạt động trong năm 2018.

Khối thịnh vượng chung của các quốc gia độc lập, Mỹ Latinh và khu vực Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ, tất cả đều triển khai tăng công suất lần lượt 2,1 triệu tấn, 1,6 triệu tấn và 0,6 triệu tấn.

Năng lực sản xuất thép toàn cầu hiện đang ở trạng thái dư thừa, với khoảng cách sản xuất- công suất là 561 triệu tấn, và ngành này đã chứng kiến nỗ lực của một số nước, trong đó có Trung Quốc.

NGUYÊN LIỆU THÔ

* Thị trường phế nhập khẩu Thổ Nhĩ Kỳ đã kết thúc tuần với một niềm tin vững chắc hơn, sau một sự kiện ngành công nghiệp đã làm thị trường yên lặng hầu như trong suốt tuần. Cuộc họp IREPAS lần thứ 79 được tổ chức tại Istanbul đã tạo cơ hội cho những người tham gia ngành công nghiệp đồng ý các giao dịch mới với giá cao hơn, được chứng minh bằng các giao dịch mới nhất được báo cáo.

Một giao dịch có nguồn gốc từ Baltic cho khoảng 25.000 tấn HMS 1/2 (80:20) với giá 321 USD/tấn và 4.000 tấn phế bonus ở mức 331 USD/tấn CFR Izmir, bao gồm tối thiểu 1.000 tấn đường ray.

Một giao dịch nguồn gốc Benelux cho 15.000 tấn HMS 1/2 (75:25), 5.000 tấn phế vụn, 5.000 tấn bonus và 2.000 tấn HMS 1 với giá trung bình 321,50 USD/tấn CFR Iskenderun, và tương đương 323 USD/tấn, theo phương pháp tính của Platts.

Một thỏa thuận có nguồn gốc từ Baltic cho một nhà máy với giá 321 USD/tấn cho HMS 1/2 (80:20).

* Trong khi đó, giá HMS của Đông Á vẫn bị đình trệ và một cuộc tranh cãi nảy lửa về giá giữa người mua và nhà cung cấp đã diễn ra trong suốt tuần. Các nhà máy Hàn Quốc đã cân nhắc về chào giá cao hơn từ Mỹ, ở mức trên 355 USD/tấn CFR Hàn Quốc, cho bulk số HMS 1/2 80:20 của Mỹ. Và tương tự ở Việt Nam, các nhà sản xuất thép đã không thể hiện sự quan tâm đến giá cao hơn.

* Trong khi đó, trên thị trường container, giá phế sang Đài Loan tiếp tục xu hướng tăng trong tuần thứ ba, do các nhà máy đã nghiền ngẫm các chào giá nhập khẩu đắt đỏ hơn. Nhiều giao dịch đã được ký kết cho HMS 80:20 container có xuất xứ từ Mỹ trong suốt tuần trong khoảng 331- 335 USD/tấn CFR Đài Loan, với các giao dịch mới nhất kết thúc ở mức 332 USD/tấn.

Thị trường phế dự báo sẽ tăng do nhu cầu phục hồi và giá thép vài nơi tăng lên, nên giá phế nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ đự báo đi ngang đến tăng 5-10 USD/tấn trong khi tại Châu Á giá cả ổn định. Thị trường phế Mỹ và châu Âu có thể đạt đáy và sẽ bắt đầu đi ngang tới tăng 10 USD/tấn trong tháng sau.

KẾT LUẬN:

Giá thép thế giới đang nhận được hỗ trợ từ:

-Sự điều tiết nguồn cung quá mức tại Trung Quốc thông qua các chính sách môi trường, giảm áp lực nguồn cung tới thị trường thế giới.

-Chính phủ các nước tiếp tục chú trọng thúc đẩy đầu tư cơ sở hạ tầng, kích cầu.

-Chính sách thuế quan, các biện pháp tự vệ giúp thúc đẩy giá nội địa.

-Giá nguyên liệu thô tăng, gây áp lực tăng giá cho các nhà máy.

Tuy nhiên, giá cũng gặp áp lực và biến động do:

-Sự bất ổn liên quan tới thuế 25% Mỹ và biện pháp trả đũa của EU.

 -Căng thẳng thương mại gia tăng giữa Trung Quốc- Mỹ cũng như với các nước khác ảnh hưởng xấu đến các công ty thép.

-Đồng nội tệ các nước mất giá gây ra các vấn đề dòng tiền.

Dự báo giá thép tháng 9 phần lớn sẽ tăng 10-20 USD/tấn tại các khu vực nhờ tiêu thụ phục hồi song vẫn biến động.

Thép dài còn gọi là thép xây dựng (sử dụng trong ngành xây dựng) như thép hình, thép thanh và thép cây.

Thép dẹt được sử dụng trong ngành công nghiệp nặng như đóng tàu, sản xuất ô tô, sản xuất các máy móc thiết bị công nghiệp, bao gồm các loại thép tấm, lá, cán nóng và cán nguội.

Lưu ý:  Dự báo trên chỉ mang tính tham khảo. Quý khách hàng nên tham khảo thêm nhiều nguồn tin khi quyết định mua bán.