Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Tuần 24/2018: Dự báo xu hướng thép TG

 http://tiepthithegioi.vn/wp-content/uploads/2016/10/thep-3276-1398138441.jpg

  THÉP DÀI

• Dù vài nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ giảm giá thép cây nội địa do đồng Lira tăng giá sau quyết định tăng lãi suất của Ngân hàng thêm 1.25% lên 17.75%, song giá mới theo đồng dolla tăng nhẹ so với tuần đầu tháng 6. Vài giá chào xuất khẩu cũng cho thấy dấu hiệu tăng trưởng.

Nhà máy Izmir Demir Celik (IDC) mở cửa nhận đơn hàng thép cây với giá giảm 60 lira/tấn do đồng Lira tăng giá. Giá cho thép cây 12-32mm sau khi IDC cắt giảm còn 2.920 Lira/tấn xuất xưởng, trong khi loại 10mm giảm còn 2.935 Lira/tấn xuất xưởng. Giá cho loại 8mm giảm còn 2.950 Lira/tấn xuất xưởng. Giá đã tính VAT 18% và tương đương 552 USD/tấn, 555 USD/tấn và 559 USD/tấn chưa thuế.

Trong khi đó, các nhà máy xuất khẩu cũng tăng giá chào lên trên 550 USD/tấn FOB, sau khi giá nhập khẩu phế liệu cao hơn kể từ đầu tuần, và nhu cầu tiêu thụ cũng tăng từ Mỹ dù có thuế. Với việc áp thuế cho Canada và Mexico, Thổ Nhĩ Kỳ đã chào bán trở lại vào thị trường Mỹ và cũng nhận được chào mua tăng từ khu vực này. Điều này thắp lên hy vọng giá cả sẽ tăng sắp tới.

Tuy nhiên, lễ Ramadan đang tới gần cộng với bất ổn thị trường dựa vào cuộc bầu cử Tổng thống diễn ra vào tháng 6 tới nên dự báo giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ sẽ diễn biến bất ổn cho tới cuối tháng 6. Giá dao động trong tầm 545-550 USD/tấn FOB.

• Tại Mỹ, giá thép cây tăng trưởng vừa phải dù giá phế suy yếu nhờ chính sách thuế 25% Mỹ hạn chế hàng nhập khẩu dẫn tới nguồn cung sẵn có trong nước hạn chế.

Với nguồn cung thấp nên giá thép cây Midwest tăng từ 690-705 USD/tấn lên 700-702 USD/tấn nhờ thông báo tăng giá 20 USD/tấn của các nhà máy hồi cuối tháng 4 đã được chấp nhận.

Việc Mỹ bắt đầu áp thuế cho thép cây Mexico và Canada đã thu hút các nhà xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ trở lại thị trường, với giá cạnh tranh hơn dù có thuế. Do đó, đà tăng giá thép cây nội địa sẽ hạn chế do tăng giá đồng nghĩa với việc thu hút hàng nhập khẩu hơn. Giá cuối tháng sẽ tăng lên khoảng 720-730 USD/tấn.

• Giá thép dài Châu Âu có khuynh hướng suy yếu với triển vọng ảm đạm cho cả tháng 6 này. Giá thấp hơn đã được báo cáo trong thị trường thép cây, với giá ở Đức và Benelux giảm 5 Euro/tấn xuống 280-290 Euro/tấn giá xuất xưởng hoặc 545-555 Euro/tấn giá thực tế cho thép cây đường kính 12 mm. Giá tại Pháp được báo cáo ở mức 270-275/tấn, hoặc 535-540 Euro/ tấn.

Trong khi đó, giá thép hình và thép thanh thương phẩm ổn định mức 580-590 Euro/tấn thực tế, tương đương  140-145 Euro/tấn xuất xưởng.

Thị trường trì trệ do sự bất ổn về điều tra thuế tự vệ của EU như sự trả đũa việc áp thuế 25% từ Mỹ. Trong khi đó, tiêu thụ thép thấp vào hè nên dự báo giá thép cây sẽ biến động trong tháng 6, vào tầm 270-280 Euro/tấn, giảm 10 Euro/tấn.

•  Thép cây CIS được chào ở mức 575 USD/tấn FOB Biển Đen. Một nhà sản xuất Ukraina chào giá 570 USD/tấn FOB, nhưng giá này được cho là không còn nữa vì nhà máy được cho là đang cố gắng cạnh tranh với Ả-rập Xê-út tại thị trường Lebanon. Các nguồn tin cho biết doanh thu mới nhất của thép cây Ukraina là 565 - 570 USD/tấn FOB. Nhà máy này đã chào bán 610 USD/ tấn FOB.

Trong khi đó, các nhà máy Nga ngưng chào bán xuất khẩu vì 2 lý do chính, thứ nhất là tiêu thụ trong nước tăng và thứ hai do chính sách thuế của Mỹ.

Xu hướng tăng gần đây có thể bị cản trở bởi mức thuế nhập khẩu 25% mà Hoa Kỳ thông báo. Việc CIS không bán được vào Mỹ và tất cả các nước khác ngoài Mexico và Canada sẽ làm gia tăng áp lực ở châu Mỹ, châu Phi và Đông Nam Á.

Sức mua sắp tới sẽ tăng trưởng do bước vào mùa xây dựng nên giá cả được hỗ trợ. Tuy nhiên, giá cũng gặp áp lực cạnh tranh nên chỉ tăng hạn chế vào dao động vào khoảng 590-600 USD/tấn FOB trong tháng cuối Q2.

THÉP DẸT

•  Sự suy giảm giá tấm mỏng Thổ Nhĩ Kỳ đã chậm lại trong tuần qua nhờ các nhà máy chuyển trọng tâm sang xuất khẩu khi đối mặt với sự không chắc chắn về bầu cử Tổng thống và nhu cầu chậm chạp tại nội địa.

Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục cung cấp cho thị trường Mỹ, vì giá đã đạt đến mức có thể bù đắp ảnh hưởng của thuế nhập khẩu 25%. Các khách hàng EU, thị trường truyền thống của Mỹ vẫn đang kiềm chế việc nhập khẩu vì các bất ổn thuế tự vệ.

Giá HRC trong nước của Thổ Nhĩ Kỳ dao động trong khoảng 580 - 585 USD/tấn trong tuần này, trong khi giá chào xuất khẩu của các nhà máy ở mức 570 - 580 US/tấn FOB, tùy thuộc vào trọng tải và điểm đến.

Sự sụt giảm trong giá chào bán HRC nhập khẩu cũng đã dừng lại. Giá HRC của các nhà máy CIS cung cấp cho Thổ Nhĩ Kỳ nói chung là ổn định mức 560- 565 USD/ tấn CFR, trong khi giá CRC của họ ở mức 630-635 USD/tấn CFR.

Người mua ở EU đã kiềm chế nhập khẩu trong những tuần gần đây, do điều tra tự vệ. Họ thích mua từ các nguồn địa phương và điều này đã hạn chế khối lượng xuất khẩu của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ xuống khá nhiều. Xuất khẩu thép cuộn cán nóng của Thổ Nhĩ Kỳ giảm mạnh 32% so với cùng kỳ năm ngoái xuống còn 201.500 tấn. Khối lượng xuất khẩu HRC của Thổ Nhĩ Kỳ trong khi đó dự kiến ​​sẽ tiếp tục giảm trong những tháng mùa hè, điều này có thể làm tăng áp lực lên giá HRC của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên, nhu cầu tiêu thụ từ Mỹ có thể giúp bù đắp phần nào. Theo đó, dự báo giá HRC vào tầm 570-580 USD/tấn FOB trong tháng 6.

•  Giá HRC Mỹ tiếp tục ổn định và thiết lập giá sàn ở mức 900 USD/tấn do các nhà máy giữ giá trước sự bất ổn còn hiện hữu từ chính sách thuế.

Việc Mỹ quyết định mở rộng chính sách thuế 25% cho thép nhập khẩu từ Canada, Mexico và EU khiến tình hình thị trường tương đối im ắng.

Giá HRC ở mức tối thiểu 900 USD/tấn với vài giao dịch nhỏ ở mức cao 940 USD/tấn. Giá cho CRC cũng điều chỉnh với vài giao dịch giá thấp mức 980 USD/tấn không còn nữa và giá tầm 1.000-1.050 USD/tấn.

Các đơn hàng và giá chào HRC nhập khẩu mới tới thị trường Houston tầm 800 USD/tấn đã tính thuế. Với bối cảnh hiện tại dự báo thị trường thép cuộn sẽ còn ổn định tới cuối tháng.

•  Các nhà máy của CIS có ý định tăng giá chào hàng tháng 7 thêm 10-15 USD/tấn lên mức 555-560 USD/tấn FOB cho cuộn dây cán nóng nhỏ và 565 USD/tấn FOB cho HRC cuộn lớn, với giá CRC tầm 620 - 630 USD/tấn FOB. Giá chào từ CIS tăng trở lại sau những cải thiện được thấy ở thị trường Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng lo ngại về diễn biến giá Trung Quốc với nhận định cho rằng giá chỉ tăng ngắn hạn.

Giá phế liệu nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ đã dần dần tăng dần một hoặc hai USD, cộng với thị trường Mỹ áp thuế cho Canada và Mexico nên các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã phục hồi khả năng bán thép cây cho Mỹ. Ngoài ra, thị trường Trung Quốc đã mạnh gần đây. Đó là những yếu tố trợ giá thép CIS.

Tuy nhiên vẫn có sự lo ngại việc giảm giá tại Trung Quốc nên xu hướng tăng hiện tại chỉ là sự phục hồi tạm thời. Việc cắt giảm sản lượng và ngừng sản xuất mà chúng tôi thấy ở Trung Quốc không chỉ dành cho các nhà máy thép, mà còn ảnh hưởng đến các lĩnh vực tiêu thụ thép.

Do đó, dự báo giá thép cuộn CIS sẽ tăng ngắn hạn nhưng suy yếu trở lại vào cuối tháng, về tầm 550-555 USD/tấn cho HRC.

• Thị trường thép cuộn Bắc Âu đang hy vọng sẽ có thông báo từ Uỷ ban EU cho vấn đề thép nhập khẩu, nhằm chấm dứt tình trạng mua đủ dùng trên thị trường giao ngay lúc này do các bất ổn về hàng nhập khẩu.

Các nguồn tin cho biết các biện pháp tự vệ sẽ chỉ áp dụng cho khối lượng đặt mua thép nhập khẩu sau khi có bất cứ thông báo về biện pháp trả đũa nào. Theo dự báo thì các biện pháp tự vệ gồm có hạn ngạch/thuế quan chỉ có hiệu lực cho đơn hàng mới sau khi ra thông báo và khối lượng đã nhập vào EU sẽ không bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, theo một nguồn tin thì thông báo của EU sẽ chỉ ra vào tháng tới.

Giá HRC Ý hiện tại rẻ hơn giá nội địa Ruhr mức 50 Euro/tấn, nhưng chỉ thu hút Nam Đức lúc này do chi phí vận chuyển cao dựa vào sự thiếu hụt xe tải giao hàng.

Dù các bất ổn hiện hữu và người mua phần lớn chỉ đặt đủ dùng song giá HRC vẫn ở mức 560-570 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr trong các tuần qua, chỉ giảm vài Euro và hiện tại đang ổn định.

Giá sẽ còn gặp áp lực tiêu thụ thấp khiến tồn kho gia tăng và các bất ổn thị trường kéo giá giảm thêm 10-20 Euro/tấn trong tháng 6.

SẢN LƯỢNG THÉP THÔ

Sản lượng 64 quốc gia đạt tổng cộng 148.3 triệu tấn trong tháng 4. Trong đó, sản lượng thép thô Trung Quốc là 76.7 triệu tấn, tăng 4.8% so với cùng kỳ năm ngoái. Nhật sản xuất 8.7 triệu tấn, giảm 0.4% so với năm 2017.

Ấn Độ cũng sản xuất 8.7 triệu tấn, tăng 5.6% so với năm ngoái. Hàn Quốc sản xuất tăng 7.1% lên 5.9 triệu tấn trong tháng qua. Mỹ sản xuất 6.9 triệu tấn thép thô trong tháng 4/2018, tăng 3.6% so với tháng 4/2017.

Trong các nước liên minh EU, Ý sản xuất 2.1 triệu tấn, tăng 3.7% so với năm ngoái. Pháp sản xuất 1.4 triệu tấn, tăng 10.7% so với năm ngoái. Tây Ban Nha sản xuất 1.3 triệu tấn, tăng 7.5%.

Braxin sản xuất tăng 1.9% lên 3 triệu tấn, trong khi Ukraina sản xuất tăng 6.0% lên 1.7 triệu tấn. Sản xuất thép tại Thổ Nhĩ Kỳ giảm 3.1% xuống 3.0 triệu tấn.

Chính sách giảm sản xuất chống khói bụi trong mùa đông tại Trung Quốc đã hết hiệu lực từ cuối tháng 3 trong khi tháng 4-tháng 5 là thời điểm vàng tiêu thụ thép nên sản lượng nước này sẽ tiếp tục gia tăng. Tương tự, các nước khác cũng sẽ tăng sản xuất kiếm lời. Do đó, sản lượng toàn cầu tháng 5 sẽ tiếp tục tăng lên khoảng 150 triệu tấn.

NGUYÊN LIỆU THÔ

• Giá tại thị trường phế liệu nhập khẩu Thổ Nhĩ Kỳ tăng trong tuần qua, giữa một loạt các giao dịch mới vào Thổ Nhĩ Kỳ.Theo các mức thuế thép gần đây của Mỹ áp đặt đối với EU, Canada và Mexico, triển vọng tích cực hơn về doanh số bán thép thành phẩm của Thổ Nhĩ Kỳ kết hợp với tồn kho thép thấp tại các nhà máy đã đưa người mua trở lại bàn đàm phán, khiến họ chấp nhận giá cao hơn.

Trong một thỏa thuận được báo cáo hôm thứ Sáu, hai nhà cung cấp Baltic cùng bán một lô phế cho một nhà sản xuất thép có trụ sở tại Marmara, khối lượng 28.000 tấn HMS 1/2 (80:20) với giá 344 USD/tấn và 5.000 tấn phế bonus với giá 359 USD/tấn cho lô hàng ngày 2/7 .

• Ngược lại, thị trường phế HMS khối lượng lớn Đông Á giảm trong bối cảnh giá chào bán và chào mua cùng giảm. Giá nhập khẩu phế HMS 1/2 80:20 CFR Đông Á với giá 350- 360 USD/tấn CFR vào thứ tư, giảm 5 USD/tấn so với tuần trước.

• Trong khi đó, chào giá vào Việt Nam cũng giảm nhẹ trong tuần, với phế HMS 1/2 50:50 của Hồng Kông với giá 346- 348 USD/tấn CFR vào thứ tư, giảm 1-2 USD/tấn so với giá chào bán tuần trước.

• Giá xuất khẩu phế liệu của Nhật Bản đã suy yếu hơn nữa do giá chào mua thấp. Tuy nhiên, giá trong nước vẫn hầu như không thay đổi và vẫn cao hơn giá xuất khẩu có thể cung cấp.

Giá xuất khẩu phế H2 của Nhật Bản ở mức 34.000 Yên/tấn (309 USD/ tấn) FOB Vịnh Tokyo thứ Tư, giảm 250 Yên/tấn so với mức trung bình của tuần trước.

• Giá  phế liệu khối lượng nhỏ CFR Đài Loan được đánh giá ở mức 325 USD/ tấn hôm thứ Sáu, giảm 5 USD/tấn so với tuần trước. Trong tuần, các nhà máy mini lớn tại Đài Loan đã ký kết các thỏa thuận cho HMS 1/2 80:20 được xuất khẩu tại Mỹ với giá 325 USD/tấn CFR Đài Loan, những người tham gia thị trường cho biết.

 KẾT LUẬN:

Giá thép thế giới được hỗ trợ từ:

_Sự điều tiết nguồn cung quá mức tại Trung Quốc thông qua các chính sách môi trường, giảm áp lực nguồn cung tới thị trường thế giới.

_Chính phủ các nước tiếp tục chú trọng thúc đẩy đầu tư cơ sở hạ tầng, kích cầu.

_ Chính sách thuế quan, các biện pháp tự vệ giúp thúc đẩy giá nội địa.

Tuy nhiên, giá cũng gặp áp lực do:

_Sự bất ổn liên quan tới thuế 25% Mỹ và biện pháp trả đũa của EU.

 _  Tiêu thụ gần vào hè dần suy yếu do yếu tố mùa vụ.

_  Lễ diễn ra ở các nước Trung Đông và Bắc Phi trong hè làm hạn chế giao dịch.

_   Bất ổn chính trị các nước.

Tháng 6, giá cả sẽ biến động, tăng ngắn hạn nửa đầu tháng và gặp áp lực suy yếu từ 5-10 USD/tấn về cuối tháng do tiêu thụ thấp điểm, cộng với ảnh hưởng từ thị trường Trung Quốc.

Thép dài còn gọi là thép xây dựng (sử dụng trong ngành xây dựng) như thép hình, thép thanh và thép cây.

Thép dẹt được sử dụng trong ngành công nghiệp nặng như đóng tàu, sản xuất ô tô, sản xuất các máy móc thiết bị công nghiệp, bao gồm các loại thép tấm, lá, cán nóng và cán nguội.

Lưu ý:  Dự báo trên chỉ mang tính tham khảo. Quý khách hàng nên tham khảo thêm nhiều nguồn tin khi quyết định mua bán.