Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Tổng quan thị trường thép thế giới tuần 42/2014

 Mỹ

Trước áp lực giá phế giảm trong tháng qua cộng với các quan ngại về thuế hàng tồn cao vào cuối năm đã thúc đẩy các nhà máy thép Mỹ giảm giá chào bán nhằm giải phóng hàng tồn kho. Nhìn chung giá thép trong tuần này bình ổn nhưng đã suy yếu so với tháng 9.

Gía thép cây bình ổn tại mức 610 USD/tấn xuất xưởng mặc dù phế đã giảm 20 USD/tấn so với tháng trước do các nhà máy kiên trì giữ giá. Trong khi đó, hàng nhập khẩu giá rẻ hơn 45-60 USD/tấn.

Giá phế trong nước giảm nhưng giá xuất khẩu phế khối lượng sang Đài Loan vẫn bình ổn tại mức 300 USD/tấn CFR Đài Loan sau khi giảm 50 USD/tấn trước đó trong khi thị trường phế khối lượng lớn đi vào ngõ cụt do sức mua suy yếu.

Trong khi đó, thị trường thép  cuộn Mỹ đang  nỗ lực hết sức để cắt giảm hàng tồn trước thời điểm cuối năm, gây áp lực giảm giá lên thị trường.

Gía chào bán HRC hiện tại từ các thương nhân Midwest là 630-640 USD/tấn. Tuy nhiên, trớ trêu thay là có vài người mua trong nước vẫn nhập khẩu nguyên liệu mặc dù vẫn còn hàng trong nước trước các thông tin chống bán phá giá.

Thổ Nhĩ Kỳ

Giá phế trong nước vẫn tiếp tục rơi tự do trong bối cảnh tỷ giá đồng Lira/dolla dao động, áp lực cạnh tranh mạnh mẽ từ Trung Quốc cộng với nhu cầu tiêu thụ suy yếu đã đẩy thị trường thép Thổ Nhĩ Kỳ lún sâu hơn nữa trong tuần này. Tia sáng duy nhất cho thị trường thép cuộn lúc này là dự án xây dựng đường ống dẫn dầu xuyên Anatolian sẽ thúc đẩy tiêu thụ thép dẹt trong nước.

Các nhà máy lớn trong nước đều giảm giá mua phế DKP, chẳng hạn như Erdemir giảm 20 TRY/tấn (9 USD/tấn)  hay Colagku và Asil Celik giảm giá mua xuống 20 TRY/tấn (9 USD/tấn).

Giá chào xuất khẩu thép mạ Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm hơn nữa trong tuần này với mặt hàng HDG 0.5mm giảm 10-15 USD/tấn còn 750-770 USD/tấn FOB và  PPGI 9022 0.5mm đạt mức 850-880 USD/tấn FOB.

Nhu cầu tiêu thụ tại Châu Âu thấp do đồng dolla tăng so với Euro. Trong khi đó, thị trường xuất khẩu rất khó khăn do sự cạnh tranh mạnh mẽ từ Trung Quốc cộng với sức mua tại Trung Đông không hồi phục nhiều sau lễ Eid đã ảnh hưởng tới xuất khẩu.

Giá chào HDG 0.5mm trong nước cũng giảm 10 USD/tấn còn 770-790 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá chào PPGI 9002 0.5mm đạt mức 870-900 USD/tấn xuất xưởng, giảm cùng mức tương tự.

Mặc dù giá niêm yết HRC Thổ Nhĩ Kỳ vẫn ở mức 590-600 USD/tấn xuất xưởng, tuy nhiên, vài nguồn tin cho biết các giao dịch đa phần được chốt tại mức 585-590 USD/tấn xuất xưởng với chiết khấu, do sự suy yếu mạnh của đồng Lira và tình hình căng thẳng tại Syria do quân Hồi giáo IS tiếp tục làm suy yếu tâm lý thị trường.

Giá chào nhập khẩu HRC giảm, đặc biệt là giá chào từ Trung Quốc cũng gây áp lực lên thị trường HRC Thổ Nhĩ Kỳ mặc dù chất lượng thấp. Gía chào từ các nhà môi giới hiện chỉ cao hơn giá xuất xưởng 15-20 USD/tấn. Trong khi đó, giá chào từ Nga đạt mức 560-565 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ và giá chào từ Ukraina là 545 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ.

Giá chào CRC cũng giảm 5 USD/tấn còn 675-690 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá chào xuất khẩu là 670-680 USD/tấn xuất xưởng.

Tuy nhiên, dự án đường ống dẫn khí xuyên Anatolian (TANAP) đã thắp lên tia hy vọng cho thị trường nội địa khi có 5 công ty thép Thổ Nhĩ Kỳ giành được quyền cung cấp 950.000 tấn thép ống cho dựán, giúp đẩy nhanh tiêu thụ HRC trên thị trường.

CIS

Phôi thanh CIS vẫn nằm trong vùng áp lực giảm giá do cả bên mua và bên bán đều tiếp tục giảm giá chào. Dù vậy, nỗ lực tăng nhẹ giá chào bán gần đây bởi các nhà máy Trung Quốc khiến hầu hết các nguồn tin tin rằng thị trường có thể đã chạm đáy.

Một khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ đã ký hợp đồng mua phôi thanh Ukraina tại mức giá 460-465 USD/tấn FOB Biển Đen, tuy nhiên, thông tin này chưa được xác nhận. Một thương nhân lớn cho biết giá từ Ukraina và Nga vẫn ở mức 485 USD/tấn FOB Biển Đen và không có giá thấp hơn trên thị trường.

Châu Âu

Giá phế Châu Âu suy yếu vẫn chưa tác động tới thép cây do người mua tiếp tục trì hoãn các đơn hàng lớn với hy vọng giá giảm vào cuối tháng này. Tuy nhiên, giá xuất khẩu thép cây EU được cho là đang tiến gần tới mức giá đáy do giá chào bán từ các nhà máy Ý và Tây Ban Nha vẫn thấp hơn 25 USD/tấn so với giá chào từ Thổ Nhĩ Kỳ dựa trên tỷ giá đồng bạc xanh tăng so với Euro.

Gía  chào từ các nhà máy EU tới Algeria vẫn ở mức 420 Euro/tấn (530-535 USD/tấn) FOB cảng Địa Trung Hải trong khi giá chào mua đã giảm còn 415 Euro/tấn trong lỗ lực tìm kiếm lợi nhuận dựa trên sự suy yếu của giá phế.

Giá thép tấm Châu Âu đã trở về mức bình ổn và dường như không tăng thêm trong Q4 do sức mua suy yếu và khủng hoảng Ukraina gia tăng ảnh hưởng lên giá thép. Trong khi đó, vài nguồn tin cho biết giá đã bắt đầu có dấu hiệu suy yếu.

Sau khi tăng lên trong Q3 nhờ vào sự thiếu hụt nguồn cung từ Ukraina, giá thép tấm S235 tại Châu Âu hiện đã trở về mức bình ổn 500-530 Euro/tấn xuất xưởng trong Q4 tùy thuộc vào nhà máy và từng thị trường. Với nguồn cung giới hạn từ nhà máy Metinvest và sự bổ sung nguồn hàng từ EU, sự thiếu hụt nguồn cung từ Ukraina dường như đã được giảm nhẹ.

Trong khi đó, giá thép cuộn Tây Bắc Âu vẫn bình ổn trong tuần này. Người mua có xu hướng chờ đợi thị trường trước khi đặt các lô hàng cho năm tới.

Giá HRC từ các nhà máy Tây Bắc Âu được chào bán tại mức 420-425 Euro/tấn xuất xưởng, không đổi so với tháng 9. Giá CRC  đạt mức trung bình 490-510 Euro/tấn xuất xưởng.

Nhật Bản

Giá phế suy yếu hơn đang gây phiền toái cho các nhà sản xuất thép cây Nhật Bản trong khi họ đang cố sức để tăng giá.

Nhà sản xuất thép cây lớn nhất nước, Kyoei Steel, đã tăng thêm 3.000 Yên/tấn (28 USD/tấn) đối với những hợp đồng thép cây tháng 10 và các nhà sản xuất thép cây khác cũng  nâng theo thêm 2.000-3.000 Yên/tấn. Trong khi đó, giá niêm yết tháng 10 của Tokyo Steel cho thép cây SD295A (13-25mm) là 65.000 Yên/tấn (613 USD/tấn).

Các nhà máy thép liên hợp của Nhật và nhà máy đóng tàu trong nước cuối cùng đã thống nhất mức giá cho thép tấm đóng tàu từ tháng 04 đến tháng 09 (sẽ được sản xuất từ nửa năm trước đó). Giá hợp đồng dài hạn phổ biến vẫn còn dưới 70.000 Yên/tấn (653 USD/tấn), một mức giá quá thấp đối với các nhà sản xuất thép.

Giá trên thị trường hiện nay của thép tấm loại SS400 dày 16-25mm, 1.524-3.048mm ở Tokyo là 84.000-86.000 Yên/tấn (784-802 USD/tấn).

Ấn Độ

Các nhà sản xuất thép Ấn Độ bắt buộc phải duy trì giá HRC trong nước do nhu cầu từ ngành xây dựng vẫn còn trì trệ, mặc dù đã kết thúc mùa mưa vào tháng trước. Vắng bóng sức mua cùng với nguồn hàng giá rẻ được nhập khẩu từ Trung Quốc tiếp tục gây sức ép lên giá.

HRC IS 2062 loại A/B dày từ 3mm trở lên có mức giá giao dịch tiếp tục trung bình ở mức 34.500-35.500 rupees/tấn (562-578 USD/tấn) xuất xưởng, không đổi so với tuần trước. Mức giá này tương đương 523-538 USD/tấn CFR Mumbai nếu tính theo giá nhập khẩu, trong đó thuế suất nhập khẩu là 7.5% cho HRC từ hầu hết các nước.

Chào giá HRC loại thương phẩm SS400 xuất xứ Trung Quốc dày từ 3mm trở lên vẫn duy trì ở mức 505-510 USD/tấn FOB (tương đương 545-550 USD/tấn CFR Mumbai, hay 34.002-33.758 rupees/tấn). Mức giá này cao hơn so với chào giá 515-520 USD/tấn CFR Mumbai cho thép cuộn của Trung Quốc hồi tuần trước.

Đài Loan

Feng Hsin Iron & Steel đã giảm giá niêm yết trong nước cho thép thanh chịu lực xuống 200 Đài tệ/tấn (7 USD/tấn) trong tuần này do giá phế thấp hơn giúp giảm bớt chi phí sản xuất của nhà máy.

Theo đó, thép cây đường kính chuẩn 13mm của Feng Hsin còn 16.900 Đài tệ/tấn (555 USD/tấn) xuất xưởng Đài Trung áp dụng từ ngày 13/10. Feng Hsin được xem là nhà thiết lập giá thép cây ở thị trường trong nước.