Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Tổng quan thị trường thép thế giới tuần 09

 

Mỹ

Thị trường tấm mỏng Mỹ hiện tại vẫn thiếu chăc chắn với giá cả tuy ổn định tại Midwest nhưng suy yếu ở Nam Mỹ. Các giá giao dịch phổ biến trên thị trường đối với HRC dao động trong khoảng 630-650 USD/tấn, tuy nhiên cũng có báo cáo giá giao dịch ở mức 610 USD/tấn tại phía Nam.Gía CRC vẫn ổn định tại mức 760-770 USD/tấn.

Trong khi đó, giá  xuất khẩu phế Ferrite khối lượng nhỏ từ Bờ Biển Tây Mỹ tới Đài Loan đã tăng trong tuần này, đạt mức 339 USD/tấn, đảo ngược đà giảm 2 tháng trước trong khi các đơn hàng khối lượng lớn vẫn được chốt tại mức ngang bằng so với các đơn hàng tháng trước. Trong hai ngày đầu tuần, hai nhà máy Đài Loan đã đặt mua 25.000 tấn phế HMS 80:20 và phế vụn xuất xưởng Mỹ tại mức 364 USD/tấn CFR.

 

Thổ Nhĩ Kỳ

Tình hình chính trị bất ổn tại Thổ Nhĩ Kỳ sau các cáo buộc buộc tham nhũng gần đây nhằm vào Thủ Tướng Thổ Nhĩ Kỳ Recep Erdogan đã giáng thêm một đòn vào nền kinh tế nước này, khiến tỷ giá hối đoái dao động và  bóng đen bao trùm nền kinh tế, làm suy yếu ngành thép trong nước. Gía các mặt hàng thép trong tuần hầu như đều theo chiều hướng giảm.

Giá xuất khẩu PPGI Thổ Nhĩ Kỳ hiện đã giảm 70 USD/tấn so với  đầu tháng 2, còn 880 USD/tấn xuất xưởng do nhu cầu tiêu thụ trong nước lẫn ngoài nước thấp đã gây áp lực lên giá chào bán của các nhà máy, cộng với đà suy yếu của HRC và đồng Lira mất giá. Gía chào  bán HRC hiện tại trong nước đã giảm xuống mức 570 USD/tấn xuất xưởng. Trong khi đó, chính nhu cầu tiêu thụ suy yếu cũng gây áp lực lên thị trường CRC nội địa với giá chào bán mặt hàng này suy yếu 10 USD/tấn, chỉ còn 680 usd/tấn.

Nguồn cung quá mức cũng kìm hãm thị trường HDG. Tuy nhiên, giá chào bán HDG 0.5mm  vẫn bình ổn tại mức 780-790 USD/tấn xuất xưởng trong khi loại 1mm  đạt mức 750-760 USD/tấn xuất xưởng.

Tương tự, nhu cầu tiêu thụ thép tấm tại Thổ Nhĩ Kỳ vẫn chậm . Gía chào bán từ các nhà máy nội địa đối với thép tấm  rộng 1.500mm dày 4-12mm đã giảm 5-10 USD/tấn trong tuần này cùng với đà suy yếu của thép dẹt, còn 590-600 USD/tấn xuất xưởng, chưa tính 18% VAT. Trong khi đó, giá chào bán thép tấm từ Ukraina tới Thổ Nhĩ Kỳ vẫn tương đối ổn định trong tháng 2. Gía chào cùng loại trên đạt mức 550-560 USD/tấn CFR Thỏ Nhĩ Kỳ đối với lô hàng giao cuối tháng 3. Tuy nhiên, hầu như người mua đã hoãn lại các đơn hàng  nhập khẩu dựa vào rủi ro từ tỷ giá trong bối cảnh bất ổn chính trị.

Giá thép giảm, các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cũng  đã giảm giá thu mua phế nội địa xuống còn 335 USD/tấn. Giá phế tàu Thổ Nhĩ Kỳ cũng giảm thêm 5 USD/tấn trong tuần này.

 

CIS

Trong bối cảnh ảm đạm chung của nền kinh tế thế giới, sự sụy yếu trở lại của thị trường thép Thổ Nhĩ Kỳ, khủng hoảng tại Ukraina, nhu cầu tiêu thụ chậm chạp ở EU và tín hiệu không mấy quả quan từ Trung Quốc đã khiến giá xuất khẩu phôi thanh, thép cuộn cũng như các mặt hàng khác đều giảm.

Các nhà máy CIS đang hoàn thành việc bán các lô hàng cuộn trơn và phôi thanh còn lại của tháng 3 tại mức giá xuất khẩu thấp hơn nửa tháng trước 10-15 USD/tấn, với giá chào bán tới Địa Trung Hải và Châu Phi là 530-540 USD/tấn FOB Biển Đen.

Trong khi đó, các nhà máy CIS đang vật lộn để giữ giá chào bán thép cuộn ổn định, tuy nhiên, giá đã cho thấy tín hiệu suy yếu ở một số trường hợp. Metinvest vẫn đang  chào bán  thép cuộn  tháng 3 tại mức 530-535 USD/tấn CFR Thỏ Nhĩ Kỳ còn MMK Nga cũng đang  tìm cách chào bán thép cuộn tháng 4 tại mức giá không đổi so với tháng trước -540 USD/tấn.

Thị trường xuất khẩu phôi thanh CIS cũng trầm lắng.  Các nhà máy đang chào hàng tháng 4 tại mức 500 USD/tấn FOB Biển Đen. Trong khi đó, giá chào mua từ  một thương nhân là 480 USD/tấn FOB Biển Đen và bị từ chối.

Trong bối cảnh xung đột chính trị tại Ukraina, phôi thanh nước này đã không còn hàng có sẵn cho người mua.Ngân hàng Phương Tây cảnh báo cho các khách hàng rằng họ không tài trợ cho các doanh nghiệp nước này đến khi tình hình chính trị ổn định trở lại.

 

Châu Âu

Thị trường thép Châu Âu hiện tại không nhận được nhiều mối quan tâm thu mua từ khách hàng. Thị trường trầm lắng, các nhà máy nỗ lực duy trì giá ổn định, tuy nhiên, một vài mặt hàng thép đã không tránh khỏi nguy cơ sụt giảm.

Tại thị trường thép cây Tây Bắc Âu, người mua vẫn đang trì hoãn các đơn hàng do giá phế giảm. Gía tại Đức đạt mức 230-240 Euro/tấn giá cơ bản, tuy nhiên, giá giao dịch chỉ ở tầm 225-230 Euro/tấn.                                 Tình  hình thị trường tại Pháp cũng trầm lắng. Gía  chào chính thức từ nhà máy  Riva đạt mức 220-230 Euro/tấn giá cơ bản.

Trong khi đó, thị trường thép ống đúc  Châu Âu vẫn bình ổn trong tháng 2. Thép ống S355 60-160mm vẫn đạt mức 880-930  Euro/tấn bất chấp mọi nỗ lực tăng giá từ các nhà máy.

Tương tự, thị trường tấm dày cũng  bình ổn bất chấp giá chào bán tăng. Hiện tại vẫn còn hàng có sẵn từ các nhà máy tích hợp lớn ở Đức tại mức giá 510-520 Euro/tấn đối với loại S235 và 540 Euro/tấn đối với loại S355, theo giá DDP hoặc CPT. Gía này thấp hơn nhiều so với giá chào bán chính thức từ các nhà máy lớn tại Tây Bắc Âu cũng như Ý (510-520 Euro/tấn xuất xưởng). Gía chào bán trung bình tại  Trung Âu đối với  hàng tháng 3 là 470 Euro/tấn xuất xưởng, tuy nhiên, hiện tại, các nhà máy lớn đã tăng giá thêm 20-30 Euro/tấn và dự báo sẽ nâng giá thêm 10 Euro/tấn đối với đơn hàng Qúy 2.

Trong khi đó, giá HRC tháng 2 Châu Âu được nhận định sẽ thấp hơn giá tháng 1 do nhu cầu mua hàng đã suy yếu từ việc người mua trở về vị trí quan sát và chờ đợi. Gía dự báo dao động ở biên độ nhỏ, nằm trong tầm 420-440 USD/tấn xuất xưởng cơ bản.

Giá thép thanh thương phẩm EU cũng  đã suy  yếu trong nửa tháng qua dựa vào đà giảm của giá phế cùng với các mặt hàng thép dài khác. Tại Bắc Âu, giá đã giảm  20 Euro/tấn còn 140-150 Euro/tấn giá giao cơ bản (540-545 Euro/tấn giá giao thực tế), tuy nhiên, các nhà máy đã đạt được mục tiêu bảo toàn thời hạn thanh toán trong vòng 30 ngày ở một số nước.

Giá thép thanh thương phẩm cũng giảm ở Ý mặc dù ít  hơn so với tại Bắc Âu. Gía ở đây đã mất 10 Euro/tấn đối với giá giao cơ bản, còn 130 Euro/tấn (530 Euro/tấn giá thực tế).

 

Nhật Bản

Tuần này thị trường thép Nhật Bản tương đối bình ổn ngoài sự kiện Tokyo Steel Manufacturing, hôm thứ Tư tuần này đã thông báo sẽ giảm giá thu mua phế 1000 Yên/tấn tại Utsunomiya, Kanto và giảm giảm 500 Yên/tấn đối với phế giao tới Okayama, riêng giá mua phế tại Kyushu vẫn duy trì không đổi. Sau khi điều chỉnh, giá mua phế H2 của công ty tại Utsunomiya còn 34.500 Yên/tấn (337 USD/tấn).

 

Hàn Quốc

Tuần này thị trường cuộn cán nóng nội địa Hàn Quốc tiếp tục ảm đạm bất chấp việc tuần trước Posco, nhà sản xuất thép lớn nhất nước, thông báo tăng giá bán nội địa thêm 30.000-50.000 Won/tấn (28-47 USD/tấn) áp dụng cho các đơn đặt hàng mới cho tháng 03.

Giá bán lẻ tại Seoul hôm thứ Ba cho HRC của Posco dao động quanh mức 690.000-710.000 Won/tấn (643-662 USD/tấn), bằng với giá bán đầu tuần trước (17/02). Mặt khác, HRC loại tiêu chuẩn hàng hóa được nhập từ Trung Quốc tới các đại lý Hàn Quốc  có giá 640.000-650.000 Won/tấn.

 

Đài Loan

Tại thị trường thép xây dựng, đầu tuần, Feng Hsin Iron & Steel đã thông báo tăng giá bán trong nước thêm 200 Đài tệ/tấn (6,6 USD/tấn) giá phế đã thoát khỏi mức đáy và đang trong xu hướng trở lại đồng thời số lượng đơn đặt hàng tăng mạnh trong tuần trước. Sau khi điều chỉnh, giá thép cây cỡ thường của Feng Hsin có giá 17.400 Đài tệ/tấn (572 USD/tấn) xuất xưởng Đài Trung. Tuần trước (17-21/02), Feng Hsin đã giảm giá bán còn 17.300 Đài tệ/tấn sau khi tuyên bố giảm 300 Đài tệ/tấn nhưng sau đó đã tiếp tục giảm thêm 100 Đài tệ/tấn cho khách đặt mua.

Trong khi đó, tại thị trường thép cuộn, nhà cán lại Chung Hung Steel buộc phải duy trì giá bán HRC và CRC không đổi ở cả thị trường trong nước và xuất khẩu do nhu cầu tiêu thụ chậm chạp. Theo đó, giá xuất khẩu HRC và CRC của nhà máy này cho các lô hàng giao tháng 04 dao động lần lượt 580-590 USD/tấn FOB Đài Loan và 680-690 USD/tấn FOB. Chung Hung cũng giữ nguyên giá niêm yết giao tháng 03 cho HRC và CRC ở trong nước quanh mức lần lượt 19.300 Đài tệ/tấn (635 USD/tấn) và 23.600 Đài tệ/tấn, đây là giá trước chiết khấu.

Cũng không hơn gì, tại thị trường thép không gỉ, Yieh United Steel Corp (Yusco), ngày 25/02 đã cho hay sẽ sẽ giữ nguyên giá HRC và CRC 300-series và 400-series giao trong nước tháng 03 và xuất khẩu tháng 04 không đổi. Theo đó, ước tính giá niêm yết trong nước của Yusco cho HRC 304 2mm và CRC 2B 2mm lần lượt là 92.500 Đài tệ/tấn  (3.042 USD/tấn) và 96.500 Đài tệ/tấn. Giá xuất khẩu không được tiết lộ. 

Trong khi Yusco nhấn mạnh rằng cung và cầu đang cân bằng trên thị trường gần đây thì thị trường lại cho rằng các nhà sản xuất ở Châu Á khó mà nâng chào giá của họ lên do nhu cầu thép không gỉ không tăng như dự đoán đồng thời cũng không thể hạ giá do chi phí nguyên liệu vẫn còn cao

 

Ấn Độ

Thị trường cuộn cán nóng Ấn Độ tuần này khá trì trệ đã gây áp lực và kéo giá HRC nội địa giảm xuống. Cụ thể giá  HRC IS 2062 A/B dày từ 3mm trở lên từ ngày thứ Tư được giao dịch với giá 37.500-38.500 Rupee/tấn (605-622 USD/tấn) xuất xưởng, giảm 1,3% tương đương 500 Rupee/tấn so với tuần trước. Mức giá này tương đương giá nhập khẩu 563-579 USD/tấn CFR Mumbai, trong đó gồm thuế nhập khẩu 7.5%.

Tuy nhiên, bất chấp nhu cầu tiêu thụ hiện tại khá suy yếu, một vài nhà máy đã thông báo sẽ tăng gía bán HRC thêm 500-700 Rupee/tấn hợp đồng tháng 03.

Trong khi đó, HRC loại SS400 tiêu chuẩn hàng hóa dày từ 3mm nhập khẩu từ Trung Quốc hiện đang được chào bán với giá 525-530 USD/tấn FOB, tương đương 555-560 USD/tấn CFR Mumbai.

 

Đông Nam Á

Tại thị trường tiêu thụ phôi, tuần trước nhiều nhà cán lại ở Thái Lan và Indonesia đã đặt mua một khối lượng lớn phôi thanh nguồn gốc Đài Loan vì giá cả cạnh tranh hơn so với các nhà cung cấp khác. Theo đó giá xuất khẩu tầm 500 USD/tấn FOB, dựa trên giá bán trong nước khoảng 15.000 Đài tệ/tấn xuất xưởng (495 USD/tấn). Giá nhập khẩu phôi thanh Đài Loan vào Thái Lan và Indonesia có giá lần lượt là 520-525 USD/tấn CFR và 525-530 USD/tấn CFR. Tuy nhiên giá xuất khẩu của Đài Loan tuần này có thể tăng do giá phế và giá thép cây trong nước phục hồi trở lại. Phôi thanh nguồn gốc Nhật Bản có giá 530 USD/tấn CFR Indonesia và 523 USD/tấn CFR Thái Lan.

Trong khi giá phôi phiến nhập khẩu vào Đông Nam Á lại tăng trong suốt tháng qua do nguồn cung hạn chế. Giá phôi phiến nguồn gốc Biển Đen có giá 555 USD/tấn CFR Indonesia. Trước đó, giá phôi phiến Nga nhập khẩu vào thị trường Indonesau đạt mức giá 550 USD/tấn CFR.

Trong khi đó, giá chào bán HRC Trung Quốc chỉ từ 550-560 USD/tấn FOB vì vậy các nhà cán lại sẽ khó mà chấp nhận mua phôi tấm ở mức giá như trên. Vì vậy rất có thể giá phôi phiến nhập khẩu vào thị trường Đông Nam Á tuần này khoảng 530-540 USD/tấn CFR. Nguồn tin trong khu vực cho hay là trong khi các giao dịch phôi tấm ở Đông Nam Á đang có giá 550-560 USD/tấn CFR thì các thị trường như Đài Loan và Hàn Quốc vẫn đang bán với giá 500-550 USD/tấn.

 

Trung Đông

Tại thị trường tiêu thụ thép cây UAE, cho đến ngày thứ Tư tuần này, nhiều thương nhân cũng như người dùng trực tiếp đều chờ đợi thông báo giá bán tháng Ba của Emirates Steel (ESI), sau khi đối thủ cạnh tranh Qatar Steel (Qasco) giảm giá niêm yết xuống 75 AED/tấn (20 USD/tấn).

Trong khi đó, giá bán thép cây giao tháng Ba từ nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ đến UAE với mức 570 USD/tấn CFR Dubai, không bao gồm thuế nhập khẩu, trong khi mức giá mới của Qasco lên đến 2.175 AED/tấn (592 USD/tấn), tuy nhiên vẫn thấp hơn giá tháng Hai của ESI là 2.240 AED/tấn (610 USD/tấn). Gần đây có thêm một đơn đặt hàng nữa từ Thổ Nhĩ Kỳ với giá 565 USD/tấn CFR Dubai giao tháng 04. Rất có thể ESI sẽ hạ giá thấp hơn để cạnh tranh với hàng nhập từ Thổ Nhĩ Kỳ nhưng điều này có thể bị rắc rối bởi sự phân phối bị hạn chế.