Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Tổng hợp tin tức ngày 6/6/2025

Brazil

HRC: Các nhà xuất khẩu Trung Quốc đã hạ giá thép cuộn cán nóng (HRC) nhằm thúc đẩy doanh số bán hàng trong một thị trường nhập khẩu trầm lắng của Brazil nhưng vẫn khó chốt được hợp đồng vì người mua thép Brazil đang trong tư thế chờ đợi và xem xét do sự không chắc chắn xung quanh thuế quan, khối lượng hạn ngạch và các cuộc điều tra chống bán phá giá mới được đưa ra.

Giá thép cuộn cán nóng (HRC) đã giảm xuống còn 520-540 đô la/tấn cfr Brazil vào thứ Năm tuần này, giảm so với mức 525-541 đô la/tấn của tuần trước.

Đồng real tăng giá 10% so với đồng đô la từ đầu năm tính cho đến nay khiến giá thép cuộn cán nóng nhập khẩu trở nên cạnh tranh hơn. Kịch bản này đã tạo thêm áp lực cho các nhà máy của Brazil.

Giá thép cuộn cán nóng xuất xưởng tại Brazil đã giảm xuống còn 4.000-4.200 R/tấn, sau khi giữ nguyên trong sáu tuần.

Phôi phiến: Tâm lý thị trường phôi phiến thương mại toàn cầu tiếp tục bi quan trong tuần qua. Người mua và người bán đã làm việc để đáp ứng các yêu cầu của họ trong bối cảnh gián đoạn do chính sách thuế quan của Hoa Kỳ gây ra, vì hầu hết các cuộc đàm phán tiếp tục gây ra sự thất vọng và bất ổn.

Giá phôi phiến thương mại hàng tuần fob Biển Đen và cfr Ý giảm 5 đô la/tấn — xuống còn lần lượt 425 đô la/tấn và 492,50 đô la/tấn.

Giá thép tấm đã giảm trong tuần này khi các loại thép S275 được cán lại ở mức 610-630 euro/tấn xuất xưởng, với thời gian giao hàng cho sản xuất mới không quá bốn tuần.

Thổ Nhĩ Kỳ

Phế sắt: Thị trường nhập khẩu phế sắt của Thổ Nhĩ Kỳ đình trệ hôm thứ Năm vì các nhà máy không muốn ký hợp đồng cho đến sau kỳ nghỉ.

HMS 1/2 80:20 theo giá cfr Thổ Nhĩ Kỳ hàng ngày vẫn ở mức 337,50 đô la/tấn vào ngày 5 tháng 6.

Trên thị trường chặng đường biển ngắn, giá chào bán dao động từ 320-335 đô la/t cfr cho HMS 80:20, tùy thuộc vào nguồn gốc, nhưng các nhà máy hiện không xem xét phế chặng đường biển ngắn do khó khăn trong thanh toán và họ vẫn đang thúc đẩy giá thấp hơn.

Giá HMS 1/2 80:20 (chặng đường biển ngắn) vẫn ở mức 315 đô la/tấn cfr Thổ Nhĩ Kỳ.

Thép cây: Giá thép cây trong nước của Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 547,50 đô la/tấn xuất xưởng, không bao gồm thuế giá trị gia tăng (VAT), quy ra đồng lira tương đương tăng 110 TL/tấn lên 25.850 TL/tấn xuất xưởng, bao gồm VAT, do đồng lira mạnh hơn.

EU

HRC: Giá thép cuộn cán nóng (HRC) của Châu Âu giảm nhẹ hôm thứ Năm do nhu cầu vẫn ở mức thấp và vẫn có tin đồn về giá chào bán mềm hơn.

HRC Bắc Âu giảm nhẹ 0,75 euro/tấn xuống còn 593 euro/tấn (678 đô la/tấn) xuất xưởng, trong khi giá của Ý giảm 1,25 euro/tấn xuống còn 588,75 euro/tấn xuất xưởng.

Giá cif Ý hai tuần một lần giảm 2,50 eur/tấn xuống còn 525 eur/tấn. Chênh lệch xuất xứ là -15 eur/tấn đối với Indonesia, - 10 eur/tấn đối với Việt Nam, 0 eur/tấn đối với Nhật Bản và + 5 eur/tấn đối với Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ và Đài Loan.

Giá thép cuộn cán nóng (HRC) Anh đã giảm trong tuần này do nhu cầu thấp và thị trường thép tấm suy yếu.

HRC Anh giảm 10 bảng Anh/tấn xuống còn 540 bảng Anh/tấn ddp West Midlands đối với loại S275.

Trung Quốc

Quặng sắt: Giá quặng sắt đường biển (ICX 62%) giảm 0,55 USD/tấn xuống 94,40 USD/tấn CFR Thanh Đảo. Giá tại cảng cũng giảm nhẹ (6 NDT/tấn). Hoạt động giao dịch trên nền tảng tích cực nhưng chủ yếu từ các công ty thương mại. Hợp đồng tương lai giảm nhẹ 1 NDT/tấn.

Than cốc luyện kim & Than cốc: Giá than luyện cốc cứng PLV của Úc giảm 3,25 USD/tấn xuống 186,70 USD/tấn FOB. Giá xuất khẩu than cốc luyện kim Châu Á giảm. Các nhà máy thép ở Hà Bắc và Thiên Tân đề xuất đợt cắt giảm giá than cốc nội địa lần thứ ba với mức 70-75 NDT/tấn từ ngày 6/6, gây áp lực lớn lên thị trường. Hợp đồng tương lai than luyện cốc trên DCE tiếp tục tăng 1,68%, tạo sự phân hóa với thị trường giao ngay.

Phôi Thép (Billet): Giá xuất xưởng phôi thép Đường Sơn giảm 20 NDT/tấn xuống 2.880 NDT/tấn. Hoạt động giao dịch nhìn chung yếu.

Thép dài/Thép xây dựng (Rebar, Wire Rod): Giá thép cây nội địa (Thượng Hải, các thành phố lớn) giảm 10-20 NDT/tấn. Tồn kho thép cây của thương nhân và nhà máy giảm, nhưng sản lượng cũng giảm. Giá xuất khẩu thép cây ổn định ở 441 USD/tấn FOB. Giá cuộn trơn cũng ổn định ở 466 USD/tấn FOB. Triển vọng nhu cầu trong tháng 6 ảm đạm do kỳ thi đại học ảnh hưởng đến xây dựng.

Thép dẹt/Thép công nghiệp (HRC, CRC, HDG): Giá thép cuộn cán nóng (HRC) nội địa giảm 10 NDT/tấn. Tồn kho HRC của thương nhân và nhà máy tăng gần 80.000 tấn, gây áp lực lớn lên tâm lý thị trường. Sản lượng HRC cũng tăng. Giá xuất khẩu HRC không đổi ở 443 USD/tấn FOB, nhưng không thu hút được nhiều sự quan tâm.

Giá thép cuộn cán nguội (CRC) và thép mạ/sơn phủ (HDG/PPGI) giảm nhẹ hoặc ổn định yếu, phản ánh nhu cầu thấp và giao dịch kém.

Nhật Bản

Phế: Hoạt động xuất khẩu thép phế liệu Nhật Bản ngày 5/6 diễn ra trầm lắng. Chỉ số thép phế H2 FOB Nhật Bản giữ ổn định ở mức 41.400 JPY/tấn (290 USD/tấn). Hầu hết người mua Đài Loan đứng ngoài thị trường do giá phế đóng container giảm, và điều chỉnh giá mục tiêu cho H1/H2 50:50 của Nhật xuống khoảng 310 USD/tấn CFR, trong khi chào giá Nhật vẫn ở 320 USD/tấn CFR. Người bán Nhật Bản it chịu áp lực bán và không có chào giá xuất khẩu cạnh tranh gay gắt do thị trường nội địa ổn định. Nhu cầu từ Hàn Quốc khan hiếm, Đài Loan không nhất quán. Tuy nhiên, hoạt động mua hàng ổn định từ Việt Nam (với một số chào mua H2 ở mức 320-325 USD/tấn CFR) và sự quan tâm ngày càng tăng từ Nam Á (Bangladesh, Ấn Độ) đã hỗ trợ một phần hoạt động xuất khẩu.

Đài Loan

Phế: Thị trường phế đóng container của Đài Loan ngày 5/6 tiếp tục hạ nhiệt, chủ yếu do nhu cầu yếu. Giá phế HMS 1/2 80:20 CFR Đài Loan giảm 2 USD/tấn xuống còn 298 USD/tấn. Các nhà bán hàng cố gắng duy trì giá khoảng 300 USD/tấn CFR nhưng có thể phải chấp nhận mức thấp hơn do thiếu nhu cầu tổng thể. Người mua Đài Loan thể hiện ít quan tâm mua hàng, bị ảnh hưởng bởi nhu cầu thép nội địa yếu và tâm lý giảm giá kéo dài của thị trường thép đường biển. Nhiều nhà máy đứng ngoài hoặc hạ giá mua xuống 298 USD/tấn và thấp hơn. Người mua cho rằng giá phế nhập khẩu vẫn quá cao so với biên lợi nhuận eo hẹp, đặc biệt khi giá thép cây đã giảm về mức thấp giữa tháng 5 trong khi giá phế liệu vẫn cao hơn. Sự phục hồi ngắn ngủi của giá thép Trung Quốc vào ngày 4/6 thiếu động lực bền vững, và thị trường thép Trung Quốc trì trệ sẽ tiếp tục tạo áp lực giảm giá lên giá phế liệu đường biển.

Việt Nam

Phế: Thị trường phế Việt Nam ngày 5/6 cho thấy sự quan tâm mua hàng ổn định, ngay cả khi các thị trường phế khu vực khác như Đài Loan đang hạ nhiệt. Các nhà máy Việt Nam tiếp tục thể hiện quan tâm mua hàng đối với phế, được hỗ trợ bởi doanh số thép nội địa ổn định nhờ chi tiêu mạnh tay của chính phủ cho cơ sở hạ tầng. Một số chào mua cho phế H2 được ghi nhận ở mức 320-325 USD/tấn CFR. Tuy nhiên, một số người mua khác vẫn còn do dự và muốn đẩy giá nguyên liệu thô xuống thấp hơn, viện dẫn tâm lý yếu kém của thị trường thép tổng thể.

HRC: Thị trường thép cuộn cán nóng (HRC) tại Việt Nam ngày 5/6 duy trì ổn định nhưng với ít hoạt động. Chỉ số HRC ASEAN ổn định ở mức 493 USD/tấn. Các chào giá cho HRC SAE1006 từ Indonesia và Nhật Bản giao đến Việt Nam không đổi ở mức 505-510 USD/tấn CFR Việt Nam. Người mua Việt Nam vẫn im lặng và không đưa ra chào mua. Người mua Việt Nam có thể dễ dàng mua thép từ các nhà máy địa phương với mức chi phí tương đương. Đồng thời, nhu cầu thép thành phẩm cuối nguồn vẫn còn thấp, khiến họ chưa vội nhập khẩu.