Trung Quốc
Quặng sắt: Giá quặng sắt đường biển nhích nhẹ 15 cent/dmt cho cả chỉ số 62% và 65% CFR Thanh Đảo, được hỗ trợ bởi việc tồn kho thép giảm. Giá tại cảng biển ổn định. Hợp đồng tương lai tháng 9 trên DCE tăng nhẹ 0,43%.
Than cốc: Sự yếu kém tiếp tục chi phối thị trường than cốc nội địa Trung Quốc. Người dùng cuối ở Trung Quốc đang giữ tồn kho than cốc ở mức thấp và chỉ mua nguyên liệu khi cần thiết. Lập trường thận trọng này xuất phát từ triển vọng ảm đạm của giá than luyện cốc Trung Quốc, khi nhiều nguồn tin dự kiến các nhà máy sẽ thúc đẩy một đợt cắt giảm giá than luyện cốc khác trong tuần tới. Giá than cốc PLV đến Trung Quốc ổn định ở mức 159 USD/tấn trên cơ sở CFR, trong khi giá cấp hai không đổi ở mức 144,20 USD/tấn CFR bắc Trung Quốc. Than cốc PHCC từ tỉnh Sơn Tây được chào bán ra thị trường quốc tế ở mức 178 USD/tấn FOB Trung Quốc hôm thứ Năm.
Phôi thép: Giá xuất xưởng phôi thép Đường Sơn giữ ổn định ở 2.910 NDT/tấn. Giao dịch trực tiếp trung bình, giá tại kho khoảng 2980-2990 NDT/tấn. Chào giá xuất khẩu của Trung Quốc là 425-430 USD/tấn FOB, nhưng người mua chỉ chấp nhận khoảng 410 USD/tấn FOB.
Thép cây: Giá xuất kho Thượng Hải ổn định ở 3.060 NDT/tấn. Tồn kho thép cây giảm 70.000 tấn, nhưng mức giảm này chậm hơn tuần trước và có thể tăng trở lại. Thép cây xuất khẩu FOB Trung Quốc ổn định ở 435 USD/tấn. Chào giá 450-455 USD/tấn FOB, nhưng người mua lớn không chấp nhận giá cao hơn 450 USD/tấn CFR.
Thép cuộn trơn: Giá ổn định ở 466 USD/tấn FOB. Một nhà máy miền Bắc Trung Quốc cắt giảm chào giá 5 USD/tấn xuống 480 USD/tấn FOB cho lô hàng tháng 8.
HRC: Chỉ số FOB Trung Quốc giảm thêm 2 USD/tấn xuống 439 USD/tấn, thấp nhất trong hơn 9 tháng do nhu cầu đường biển yếu và bất ổn thuế. Chào giá chính là 444 USD/tấn FOB, nhưng người mua chỉ cân nhắc ở mức dưới 425 USD/tấn FOB. Giá xuất kho HRC Thượng Hải ổn định ở 3.210 NDT/tấn. Tồn kho giảm 50.000 tấn nhưng tâm lý tiêu cực vẫn chiếm ưu thế.
CRC: Giá giao ngay ổn định, không khí giao dịch yếu.
Thép mạ: Giá Thượng Hải ổn định nhưng yếu. HDG 1.0mm Benxi Steel 3960 NDT/tấn. PPGI 0.5mm Baosteel 6600 NDT/tấn (giảm).
Thị trường thép Trung Quốc ngày 19 tháng 6 tiếp tục thể hiện sự yếu kém và thận trọng, đặc biệt do nhu cầu nội địa giảm và áp lực từ mùa thấp điểm. Mặc dù giá quặng sắt và hợp đồng tương lai có dấu hiệu nhích nhẹ, xu hướng chung vẫn là ổn định đến giảm nhẹ.
Nhật Bản
Phế: Thị trường phế liệu Nhật Bản tiếp tục duy trì sự ổn định, khi các nhà máy nước ngoài thể hiện ít sự quan tâm mua hàng rõ rệt. Đánh giá hàng ngày của phế H2 FOB Nhật Bản vẫn không đổi ở mức 41.100 yên/tấn (tương đương 284 USD/tấn). Mặc dù có một số chào giá xuất khẩu vẫn được duy trì, chẳng hạn như H1/H2 50:50 ở mức 310 USD/tấn CFR Đài Loan và H2 ở mức 320 USD/tấn CFR Việt Nam, nhưng chúng vẫn không đủ hấp dẫn để thúc đẩy giao dịch lớn. Các nhà giao dịch Nhật Bản cho biết họ nhận được rất ít yêu cầu mua. Nhìn chung, thị trường vẫn đang trong giai đoạn chờ đợi và quan sát, với kỳ vọng nhu cầu có thể phục hồi vào tháng 8, sau mùa mưa và nóng ở Châu Á.
Đài Loan
Phế: Thị trường phế đóng container của Đài Loan suy yếu, với đánh giá HMS 1/2 80:20 CFR Đài Loan giảm 3 USD/tấn xuống 292 USD/tấn. Sự suy yếu này xuất phát từ việc một số nhà cung cấp đã phải chấp nhận giá mua thấp hơn từ các nhà máy, trong bối cảnh tổng thể nhu cầu vẫn trầm lắng do giai đoạn hạn chế điện vào mùa hè. Mặc dù đầu tuần có sự chênh lệch giữa giá chào của người bán (295 USD/tấn CFR) và giá mua của các nhà máy (290-292 USD/tấn CFR), một số giao dịch đã được chốt ở mức 292 USD/tấn CFR. Sau các giao dịch này, hầu hết các chào giá đã bị rút lại. Nhìn chung thị trường phế liệu Đài Loan đang chịu áp lực giảm giá do nhu cầu yếu và các hạn chế sản xuất, dù có một số tín hiệu ổn định từ thị trường phế liệu nhập khẩu Thổ Nhĩ Kỳ.
Việt Nam
Phế: Thị trường phế Việt Nam tiếp tục xu hướng giảm, với mức độ dè dặt từ phía các nhà máy mua hàng càng rõ nét. Đánh giá HMS 1/2 80:20 CFR Việt Nam từ tàu lớn đã giảm thêm 3 USD/tấn, xuống còn 336 USD/tấn. Các nhà máy Việt Nam vẫn đang nhắm mục tiêu giá mua thấp hơn, trong bối cảnh mùa mưa sắp tới làm chậm doanh số thép, từ đó gây áp lực giảm giá liên tục lên thị trường phế.
HRC: Thị trường thép cuộn cán nóng Việt Nam tiếp tục cho thấy giao dịch chậm và tâm lý thận trọng từ phía người mua. Chỉ số HRC ASEAN vẫn ổn định ở mức 491 USD/tấn trong một thị trường trầm lắng. Người mua Việt Nam vẫn đang rất dè dặt với các chào giá HRC từ Trung Quốc do mức thuế chống bán phá giá cao, chỉ sẵn sàng mua ở mức dưới 485-488 USD/tấn CFR Việt Nam cho cấp SAE1006. Các chào giá từ Nhật Bản ở mức trên 515 USD/tấn CFR Việt Nam cho cấp SAE cũng không thu hút được bất kỳ giá mua hay sự quan tâm nào. Điều này cho thấy thị trường vẫn đang chịu áp lực lớn về giá và nhu cầu.