Châu Âu
HRC: Giá thép cuộn cán nóng châu Âu giảm nhẹ hôm thứ Hai trong bối cảnh giao dịch vẫn chậm. Các nhà máy dự đoán thị trường sẽ thắt chặt hơn vào những tháng cuối năm, một phần là do nguồn cung nhập khẩu giảm gần đây và vì họ kỳ vọng nhu cầu sẽ quay trở lại nên vẫn giữ chào giá.
HRC Bắc Âu giảm 0,50 eur/tấn xuống còn 616,25 eur/tấn xuất xưởng, trong khi giá tại Ý giảm 0,25 eur/tấn xuống còn 602,25 eur/tấn xuất xưởng.
Mỹ
HRC: Nhà sản xuất thép Nucor hôm thứ Hai đã giảm 20 đô la/tấn ngắn (st) cho giá giao ngay cho người tiêu dùng cuộn cán nóng (HRC) xuống còn 880 đô la/st.
Giá giao ngay xuống dưới 900 đô la/st lần đầu tiên kể từ ngày 25 tháng 2. Thời gian giao hàng vẫn từ 3-5 tuần. Nucor cũng đã hạ giá HRC 20 đô la/st xuống còn 940 đô la/st tại nhà máy California Steel Industries ở miền nam California.
Giá tăng cao đã góp phần làm giảm nhu cầu HRC của Hoa Kỳ trong hai tháng qua. Người mua đã tránh mua những lô hàng giao ngay mới và thay vào đó chỉ tập trung mua các hợp đồng phân bổ hàng tháng tối thiểu.
Giá HRC của Hoa Kỳ đã giảm 15,50 đô la/st vào tuần trước xuống còn 894,50 đô la/st xuất xưởng phía đông dãy núi Rocky.
Trung Quốc
Nguyên liệu thô
Quặng sắt: Giá quặng sắt vận chuyển đường biển giảm vào ngày 19 tháng 5 do dữ liệu ngành bất động sản yếu hơn dự kiến của Trung Quốc. Chỉ số Argus ICX 62% giảm 85 cent/tấn khô (dmt) xuống còn 100,10 USD/dmt CFR Thanh Đảo. Chỉ số 65% giảm 80 cent/dmt xuống còn 111,60 USD/dmt.
Sản lượng công nghiệp và tốc độ tăng trưởng đầu tư bất động sản của Trung Quốc chậm lại trong tháng 4. Nhu cầu thép xây dựng yếu do thị trường bất động sản trì trệ đã gây áp lực lên nhu cầu quặng sắt. Thị trường vận chuyển đường biển không sôi động, chỉ có một số giao dịch được xác nhận với mức giá chiết khấu. Các giao dịch tại cảng cũng trầm lắng.
Giá hợp đồng tương lai quặng sắt tháng 9 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) giảm 0,89% xuống 722,50 NDT/tấn.
Than cốc: Thị trường Trung Quốc tiếp tục không tham gia vào các giao dịch đường biển và duy trì sự yên tĩnh đáng kể. Giá than cốc low-volatile cao cấp giao Trung Quốc vẫn ổn định ở mức 169,25 USD/tấn trên cơ sở CFR, trong khi giá bậc hai không thay đổi ở mức 149,40 USD/tấn CFR miền bắc Trung Quốc.
Thép dài
Giá thép dài nội địa Trung Quốc tiếp tục giảm vào ngày 19 tháng 5 do các chỉ số kinh tế yếu hơn.
Thép cây: Giá xuất kho thép cây tại Thượng Hải giảm 20 NDT/tấn xuống 3.140 NDT/tấn. Giá hợp đồng tương lai thép cây tháng 10 giảm 1% xuống 3.069 NDT/tấn. Nhu cầu thép xây dựng yếu do ngành bất động sản tiếp tục chậm lại (đầu tư tháng 1-4 giảm 10,3%; khởi công dự án mới giảm gần 24%). Một số nhà máy Trung Quốc cắt giảm giá xuất xưởng. Mặc dù có áp lực giảm giá, thị trường không kỳ vọng giá hợp đồng tương lai sẽ phá vỡ mức thấp trước đó. Các nhà máy có thể cắt giảm sản lượng hoặc chuyển sang sản xuất sản phẩm có lợi nhuận cao hơn. Chỉ số thép cây FOB Trung Quốc giữ ổn định ở mức 445 USD/tấn (trọng lượng lý thuyết), các nhà máy giữ giá chào ổn định với mức giao dịch khả thi.
Thép cuộn trơn và Phôi thép: Giá xuất khẩu thép cuộn trơn của Trung Quốc tăng 1 USD/tấn lên 474 USD/tấn FOB do đơn đặt hàng nội địa vẫn sôi động. Giá phôi thép xuất xưởng Đường Sơn giảm 10 NDT/tấn xuống 2.940 NDT/tấn. Các nhà kinh doanh có thể chấp nhận đơn đặt hàng xuất khẩu phôi ở mức 430 USD/tấn FOB khi giá nội địa giảm.
Thép Công nghiệp
Giá thép dẹt nội địa Trung Quốc giảm vào ngày 19 tháng 5 do dữ liệu ngành bất động sản kém khả quan làm suy yếu tâm lý thị trường.
Thép cuộn cán nóng (HRC): Giá xuất kho HRC chủ đạo tại Thượng Hải giảm 10 NDT/tấn xuống 3.270 NDT/tấn. Giá hợp đồng tương lai HRC tháng 10 giảm 1,02% xuống 3.207 NDT/tấn. Giao dịch vật chất yếu do tâm lý thị trường tiêu cực từ dữ liệu bất động sản (đầu tư bất động sản tháng 1-4 giảm 10,3%).
Chỉ số HRC FOB Trung Quốc ổn định ở mức 454 USD/tấn. Các nhà máy lớn cắt giảm giá chào xuất khẩu do giao dịch chậm và giá nội địa yếu, nhưng vẫn cao hơn một chút so với các chào giá chủ đạo khác.
Tóm lại, ngày 16 tháng 5 chứng kiến sự điều chỉnh giảm giá trên diện rộng, từ nguyên liệu thô đến thành phẩm, phản ánh sự chậm lại của hoạt động giao dịch và tâm lý thận trọng sau đợt tăng giá đầu tuần.
Nhật Bản
Phế: Giá xuất khẩu phế liệu Nhật Bản ổn định ở mức 41.600 ¥/tấn FOB (285 USD/tấn). Tokyo Steel giữ nguyên giá bán thép và giá mua phế liệu. Nhu cầu nước ngoài hạn chế do phế liệu đóng container cạnh tranh hơn và thị trường thép Châu Á thiếu động lực. Chi phí thu mua nội địa ổn định khiến người bán Nhật Bản không thể giảm giá. Thị trường nội địa đối mặt áp lực giảm giá do nhu cầu thép yếu (đơn đặt hàng thép thông thường giảm tháng thứ 10 liên tiếp).
Đài Loan
Phế: Thị trường phế liệu đóng container của Đài Loan ổn định ở mức 292 USD/tấn CFR, với giao dịch tối thiểu do người mua chờ chào giá từ Mỹ. Tuần trước, giá phế liệu nhập khẩu tăng đã thúc đẩy các nhà máy nội địa tăng giá mua phế liệu và giá bán thép cây. Các nhà cung cấp đặt mục tiêu đẩy giá phế liệu đóng container lên gần 300 USD/tấn CFR nhờ nhu cầu Đài Loan mạnh hơn và thị trường Thổ Nhĩ Kỳ tăng giá. Phế liệu Nhật Bản ít hấp dẫn hơn do chênh lệch giá cao.
Việt Nam
Thép dẹt: Chỉ số HRC ASEAN (bao gồm Việt Nam) không đổi ở mức 495 USD/tấn, nhưng thị trường trầm lắng với ít chào giá. Khoảng 15.000 tấn HRC Nhật Bản đã được bán ở mức và dưới 500 USD/tấn CFR Việt Nam vào tuần trước, nhưng không có thông tin chi tiết thêm được xác nhận. Tóm lại, thị trường thép dẹt Việt Nam khá yên ắng và có dấu hiệu chịu ảnh hưởng từ tâm lý thị trường yếu của Trung Quốc.