Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Tổng hợp tin tức ngày 19/6/2025

Thổ Nhĩ Kỳ

Thép cây: Giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ ổn định trong giao dịch chậm hôm thứ Tư, với giá phế tăng do các nhà máy tham gia thị trường muộn cho các lô hàng giao tháng 7.

Giá thép cây trong nước của Thổ Nhĩ Kỳ không đổi ở mức 539 đô la/tấn xuất xưởng, không bao gồm thuế giá trị gia tăng (VAT), quy ra đồng lira tương đương tăng 70 TL/tấn lên 25.550 TL/tấn xuất xưởng, bao gồm VAT, do đồng nội tệ tiếp tục mất giá so với đô la Mỹ.

Giá xuất khẩu hàng ngày cũng ổn định ở mức 542,50 đô la/tấn fob Thổ Nhĩ Kỳ.

Châu Âu

Thép dài: Giá thép cây của Ý đã giảm nhẹ trong tuần này sau khi đạt mức thấp nhất kể từ cuối năm 2020 vào tuần trước, trong khi giá của Đức chịu sức ép từ giá của Ý thấp hơn đáng kể.

Giá thép cây trong nước của Ý giảm nhẹ 2,50 eur/tấn xuống còn 517,50 eur/tấn xuất xưởng. Giá cuộn trơn dạng kéo hàng tuần của Ý vẫn giữ nguyên ở mức 600 eur/tấn giao tới người mua.

Trên thị trường xuất khẩu, các nhà máy của Ý đã bán cho Serbia với giá 540 eur/tấn xuất xưởng, ổn định trong tuần.

HDG: Hoạt động trên thị trường cuộn mạ kẽm nhúng nóng của Châu Âu bị hạn chế do nhu cầu thấp trong tuần này, khi các nhà máy giảm chào giá để cố gắng thúc đẩy hoạt động kinh doanh nhưng có vẻ không thành công.

Giá HDG hàng tuần giảm 15 euro/tấn xuống còn 695 euro/tấn xuất xưởng, trong khi giá của Ý giảm 10 euro/tấn xuống còn 680 euro/tấn xuất xưởng.

HRC: Thị trường cuộn cán nóng (HRC) của Châu Âu hôm thứ Tư khá trầm lắng, khi người mua hạn chế mua hàng trong nước do chênh lệch đáng kể so với mức giá nhập khẩu thấp nhất.

HRC Bắc Âu duy trì ở mức 558 euro/tấn, trong khi giá hàng ngày của Ý giảm nhẹ 1 euro/tấn xuống còn 563 euro/tấn xuất xưởng.

Giá cả đã giảm nhẹ trên thị trường tương lai, với tháng 6 giảm 8 euro/tấn xuống còn 576 euro/tấn và tháng 7 giảm 13 euro/tấn xuống còn 557 euro/tấn. Tháng 8 và tháng 9 đều giảm 5 euro/tấn xuống còn 570 euro/tấn.

Nga

Than cốc: Giá than cốc của Nga không thay đổi trong tuần này mặc dù nhu cầu ở Trung Quốc và Ấn Độ đang giảm. Nhiều nhà cung cấp than cốc của Nga không muốn đẩy giá chào bán xuống thấp hơn nữa, vì những đợt cắt giảm trước đó không thu hút được nhiều sự quan tâm mua trong những tuần qua.

Giá than cốc có độ bay hơi cao không đổi trong tuần ở mức 86,00 đô la/tấn fob Vostochny vào ngày 18 tháng 6.

PCI: Giá than phun nghiền (PCI) của Nga đã giảm trong tuần này do nhu cầu ảm đạm từ phía người mua châu Á.

Giá PCI có độ bay hơi thấp đã giảm 1 đô la/tấn trong tuần xuống còn 94,90 đô la/tấn fob Vostochny vào ngày 18 tháng 6.

Trung Quốc

Quặng sắt: Giá quặng sắt đường biển giảm 1 USD/tấn khô cho chỉ số 62% và 60¢/tấn khô cho chỉ số 65%, do giao dịch mỏng. Giá quặng sắt cảng biển cũng giảm 6 NDT/tấn ướt. Hợp đồng tương lai tháng 9 trên DCE giảm 0,5%.

Than cốc: Giá than cốc cứng cao cấp (PHCC) đường biển của Úc tăng 4,95 USD/tấn nhờ giao dịch PMV, nhưng than cốc cấp hai giảm 40¢/tấn. Giá CFR Trung Quốc vẫn ổn định hoặc giảm nhẹ 5¢/tấn cho than cốc cấp hai.

Phôi thép: Giá xuất xưởng phôi thép Đường Sơn giữ ổn định ở 2.910 NDT/tấn. Giao dịch trực tiếp ở mức trung bình, với giá tại kho khoảng 2980 NDT/tấn.

Thép cây: Giá xuất kho Thượng Hải ổn định ở 3.060 NDT/tấn. Giá trung bình cả nước giảm 4 NDT/tấn. Hợp đồng tương lai thép cây tháng 10 tăng nhẹ 0,13% lên 2.986 NDT/tấn. Thép cây xuất khẩu FOB Trung Quốc ổn định ở 435 USD/tấn FOB, nhưng xuất khẩu tăng 53,5% trong tháng 5 không bù đắp được nhu cầu nội địa yếu.

Thép cuộn trơn: Giá  xuất khẩu tăng 1 USD/tấn lên 466 USD/tấn FOB.

HRC: Giá xuất kho Thượng Hải tăng 10 NDT/tấn lên 3.210 NDT/tấn. Chỉ số HRC FOB Trung Quốc giảm 3 USD/tấn xuống 441 USD/tấn, do nhu cầu khu vực mỏng và người mua kỳ vọng giá sẽ giảm.

CRC: Sáng ổn định, chiều giảm 10 NDT/tấn ở một số loại.

HDG/PPGI: Giá Thượng Hải ổn định nhưng yếu, với thép cuộn mạ màu giảm giá. Giá thép cuộn mạ kẽm 1.0mm Benxi Steel là 3.960 NDT/tấn.

Thị trường thép Trung Quốc ngày 18 tháng 6 tiếp tục cho thấy sự yếu kém và thận trọng, đặc biệt do nhu cầu nội địa giảm và áp lực từ mùa thấp điểm. Giá cả ở cả nguyên liệu thô và thép thành phẩm đều có xu hướng ổn định đến giảm nhẹ.

Nhật Bản

Phế: Thị trường xuất khẩu phế Nhật Bản tiếp tục xu hướng đi ngang, do nhu cầu từ nước ngoài vẫn trầm lắng và sự chênh lệch lớn giữa giá chào của người bán và giá mua của người mua. Đánh giá hàng ngày phế H2 FOB Nhật Bản ổn định ở mức 41.100 yên/tấn (283 USD/tấn). Mặc dù một số nhà cung cấp đã hạ giá chào, như H2 ở mức 310 USD/tấn CFR Việt Nam, nhưng những mức này vẫn chưa đủ hấp dẫn đối với người mua. Các nhà máy Đài Loan vẫn giữ giá mua ở dưới 300 USD/tấn CFR, trong khi các nhà máy Việt Nam nhắm mục tiêu khoảng 315-320 USD/tấn CFR. Tình hình này cho thấy sự bế tắc trên thị trường xuất khẩu phế liệu Nhật Bản, với cả người bán và người mua đều đang chờ đợi các tín hiệu rõ ràng hơn về hướng đi của giá.

Đài Loan

Phế: Thị trường phế đóng container của Đài Loan vẫn ổn định, với đánh giá HMS 1/2 80:20 CFR Đài Loan không đổi ở 295 USD/tấn. Mặc dù có một số yếu tố như kỳ vọng về nhu cầu mới từ Thổ Nhĩ Kỳ và các cuộc đàm phán nội địa mạnh hơn ở Mỹ vào tháng 7 hỗ trợ tâm lý người bán, nhưng khoảng cách giữa giá chào và giá mua vẫn dai dẳng. Người bán vẫn giữ chào giá từ 295 USD/tấn CFR trở lên, trong khi các nhà máy Đài Loan duy trì giá mua ở mức 290-292 USD/tấn CFR. Sự chênh lệch này đã dẫn đến việc không có giao dịch nào được xác nhận hôm nay, cho thấy thị trường vẫn đang trong tình trạng chờ đợi và quan sát.

Việt Nam

Phế: Thị trường phế vẫn cho thấy sự dè dặt từ phía các nhà máy mua hàng. Đánh giá HMS 1/2 80:20 CFR Việt Nam từ tàu lớn giảm nhẹ 3 USD/tấn, xuống còn 339 USD/tấn. Mặc dù có một số chào giá H2 của Nhật Bản ở mức 310 USD/tấn CFR Việt Nam, nhưng nhìn chung, các nhà máy Việt Nam vẫn đang nhắm mục tiêu giá mua thấp hơn, khoảng 315-320 USD/tấn CFR. Do mùa mưa sắp tới làm chậm doanh số thép, các nhà máy đang giữ vững lập trường chờ đợi, gây áp lực giảm giá liên tục lên thị trường phế liệu.

HRC: Thị trường thép cuộn cán nóng Việt Nam tiếp tục cho thấy giao dịch chậm và tâm lý thận trọng từ phía người mua, bất chấp một số tín hiệu giá ổn định từ Trung Quốc. Chỉ số HRC ASEAN đã giảm thêm 2 USD/tấn, xuống còn 491 USD/tấn. Người mua Việt Nam vẫn đang rất dè dặt với các chào giá HRC từ Trung Quốc do mức thuế chống bán phá giá cao. Mặc dù các nhà máy Indonesia sẵn sàng nhận đơn hàng ở 493 USD/tấn CFR Việt Nam cho cấp SAE1006, nhưng người mua Việt Nam vẫn nhắm đến mức giá thấp hơn, khoảng 485-488 USD/tấn CFR Việt Nam. Nhìn chung, thị trường vẫn thiếu hoạt động mua bán đáng kể, phản ánh sự thận trọng trong bối cảnh nhu cầu chung còn yếu và áp lực từ các loại thuế nhập khẩu.