Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Tổng hợp tin tức ngày 14/5/2025

Mỹ  

HRC: Hoạt động giao ngay thép cuộn cán nóng (HRC) của Hoa Kỳ đã tăng lên trong tuần này sau gần một tháng rưỡi ế ẩm trong hoạt động mua, được hỗ trợ bởi chiết khấu giá từ một số nhà máy. Mặc dù hoạt động cải thiện, người mua vẫn chủ yếu đứng ngoài cuộc. Nhu cầu yếu và dự kiến ​​giá hợp đồng tháng 6 sẽ giảm đã hạn chế nhu cầu mua giao ngay. Người mua thúc giục các nhà máy giảm giá đối với các đơn hàng trên 1.000 st nhưng giao dịch hạn chế đối với khối lượng lớn hơn.

Giá thép HRC tại Hoa Kỳ đã giảm 15,50 đô la/tấn ngắn (st) xuống còn 894,50 đô la/st xuất xưởng phía đông dãy núi Rocky. Giá đã xuống dưới 900 đô la/tấn ngắn (st) lần đầu tiên kể từ ngày 18 tháng 2.

Giá trong nước giảm đã thu hẹp khoảng cách với HRC nhập khẩu, một lần nữa được định giá ở mức 800 đô la/st ddp Houston. Sự quan tâm đối với thép nhập khẩu vẫn im ắng mặc dù đã giảm giá vì người mua thận trọng trước sự không chắc chắn trong chính sách thuế nhập khẩu của Hoa Kỳ và không muốn cam kết mua ở nước ngoài.

HDG/CRC: Giá HDG cán nóng tại Hoa Kỳ đã giảm 65,50 đô la/tấn ngắn (tấn) xuống còn 1.014,50 đô la/st xuất xưởng phía đông dãy núi Rocky. Giá này là dành cho thép có độ dày tối thiểu là 0,071 in. Thời gian giao hàng đối với HDG cán nóng đã giảm xuống còn 4,8 tuần từ 5,5 tuần trong những tuần trước.

Hoạt động giao dịch nhìn chung vẫn hạn chế do hoạt động giao ngay trầm lắng nhưng các giao dịch và nguồn thép đầu vào cho thấy các nhà máy sẵn sàng kinh doanh ở mức gần 1.000 đô la/st. Có một số dấu hiệu mua vào và nỗ lực mua dưới mức đó vào cuối tuần trước.

Mặc dù giá HDG cán nguội giảm ở mức vừa phải hơn, nhưng giá vẫn chịu áp lực. Giá HDG cán nguội của Mỹ đã giảm 15 đô la/st xuống còn 1.065 đô la/st trong tuần này. Giá này là cho thép có độ dày từ 0,028-0,07in. Thời gian giao hàng đối với HDG cán nguội đã giảm từ 7,5 tuần xuống còn 6 tuần.

Thổ Nhĩ Kỳ

Phế: Thị trường nhập khẩu phế sắt Thổ Nhĩ Kỳ vẫn sôi động trong ngày thứ Ba khi các nhà máy thép tiếp tục cần nguyên liệu đầu vào và các nhà cung cấp nâng giá chào bán. Giá phế sắt Thổ Nhĩ Kỳ HMS 1/2 80:20 vẫn ở mức 341,50 đô la/tấn cfr.

Các nhà xuất khẩu Châu Âu đưa ra mức giá lên đến 345 đô la/tấn cho HMS 80:20, vì giá tại bến tàu đã tăng trở lại trong tuần này khoảng 12,50 euro/tấn lên 255-265 euro/tấn cho HMS 1/2, vì đồng euro suy yếu và nguồn cung chảy vào chậm lại.

Giá phế HMS 1/2 80:20 (chặng đường biển ngắn) đã tăng 2,50 đô la/tấn lên 322,50 đô la/tấn cfr Thổ Nhĩ Kỳ.

Thép cây: Giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ điều chỉnh tăng cao hơn hôm thứ Ba, được hỗ trợ bởi mức tăng gần đây của giá phế và khi một số người mua xuất khẩu chấp nhận các chào giá mới. Hoạt động mua trong nước vẫn chậm, vì nhiều người mua không hoàn toàn tin tưởng vào mức giá chào mới và nhiều nhà cung cấp vẫn cần phải giải phóng hàng tồn, sau khi đã tích trữ từ hai tuần trước.

Giá xuất khẩu thép cây tăng 7,50 đô la/tấn lên 545 đô la/tấn fob Thổ Nhĩ Kỳ, sau khi một số lô hàng nhỏ được bán trong vài ngày qua ở mức cao hơn.

Giá thép cây trong nước tăng 4 đô la/tấn lên 545 đô la/tấn xuất xưởng, không bao gồm thuế giá trị gia tăng (VAT), khi các nhà máy vẫn kiên định với giá chào mới trong giao dịch trì trệ. Quy ra đồng lira tương đương tăng 250 TL/tấn lên 25.400 TL/tấn giá xuất xưởng, bao gồm VAT.

Châu Âu

HRC: Giá thép cuộn cán nóng (HRC) của Ý giảm hôm thứ Ba do người mua trả giá thấp hơn, bởi chi phí nhà máy giảm. Trên thị trường nhập khẩu, tỷ giá hối đoái đang tạo ra một cú hích nhẹ cho giá nhập khẩu, nhưng chào giá trong tuần này rất ít.

HRC của Ý giảm 1,25 euro/tấn xuống còn 607 euro/tấn xuất xưởng, trong khi HRC Tây Bắc Âu tăng nhẹ 0,50 euro/tấn lên 617,50 euro/tấn xuất xưởng. giá HRC cif Ý tăng 5 euro/tấn lên 545 euro/tấn và giá cuộn cán nguội (CRC) không đổi ở mức 715 euro/tấn xuất xưởng. CRC Tây Bắc Âu giữ mức 715 euro/tấn.

Trung Quốc

Nguyên liệu thô

Quặng sắt

Xu hướng: Giá tiếp tục mạnh mẽ, các chỉ số giá quặng mịn (62%, 65% CFR) và giá tại cảng đều tăng trong ngày 13/5, hợp đồng tương lai DCE cũng tăng. Giá quặng viên tăng theo giá quặng mịn dù nhu cầu quặng viên yếu.

Động lực/Hạn chế: Động lực chính đến từ tâm lý tích cực sau thông báo cắt giảm thuế quan Mỹ-Trung. Rio Tinto thu hẹp chiết khấu hợp đồng tháng 6, thể hiện sự tự tin của nhà cung cấp lớn. Nguồn cung quặng viên đường biển hạn chế hỗ trợ giá quặng viên.

Giao dịch: Giao dịch đường biển và tại cảng chậm lại trong ngày 13/5 sau phiên mua mạnh mẽ ngày 12/5, cho thấy sự giằng co ở mức giá cao hơn.

Dự báo: Dự kiến tiếp tục chịu áp lực tăng giá.

Than luyện cốc

Xu hướng: Giá than luyện cốc cứng cao cấp loại một giữ ổn định, loại hai nhích nhẹ lên ở một số nơi. Thị trường tổng thể giữ ổn định nhưng trầm lắng.

Động lực/Hạn chế: Thị trường có rất ít hoạt động giao dịch, đặc biệt từ Ấn Độ (do căng thẳng địa chính trị). Cạnh tranh từ than luyện cốc nội địa Trung Quốc giá cạnh tranh làm giảm nhu cầu nhập khẩu. Nguồn cung than Úc hạn chế và người bán giữ giá chờ cầu về, ngăn giá giảm dù hoạt động thấp. Tin tức thuế quan Mỹ-Trung có tác động tối thiểu trực tiếp đến than luyện cốc.

Giao dịch: Cực kỳ thấp.

Dự báo: Dự kiến tiếp tục giữ ổn định trong ngắn hạn.

Phôi thép (Nguyên liệu cho Thép dài)

Xu hướng: Giá tại Đường Sơn giảm 20 NDT/tấn vào ngày 13/5, sau khi đã tăng mạnh 60 NDT vào ngày 12/5. Giá xuất khẩu tăng nhẹ so với tuần trước.

Động lực/Hạn chế: Đà tăng giá mạnh mẽ từ ngày 12/5 đã chững lại. Nhu cầu giao ngay chậm lại rõ rệt sau đợt mua bù ngày 12/5.

Giao dịch: Chậm lại mạnh mẽ trong ngày 13/5, trở về mức của tuần trước.

Dự báo: Đà tăng đã yếu đi, có thể ổn định hoặc điều chỉnh nhẹ.

Sản phẩm thép

Thép dài (Thép cây, Thép cuộn trơn)

Xu hướng: Giá thép cây giao ngay ổn định (Thượng Hải) sau khi tăng mạnh ngày 12/5. Giá xuất xưởng nhà máy tiếp tục tăng (30-50 NDT). Giá chào xuất khẩu thép cây và thép cuộn trơn tăng.

Động lực/Hạn chế: Tâm lý thị trường hạ nhiệt sau khi người mua hoàn tất mua bù ngày 12/5. Lượng giao dịch giao ngay giảm mạnh. Nhu cầu thực tế còn yếu (mùa mưa, lo ngại dư cung tái xuất hiện). Giá xuất khẩu tăng nhưng gặp khó khăn do giá nội địa tăng ít hơn.

Giao dịch: Sụt giảm mạnh trong ngày 13/5 so với ngày 12/5.

Dự báo: Dự kiến ổn định hoặc điều chỉnh giảm nhẹ ở thị trường nội địa giao ngay. Giá chào xuất khẩu giữ cao nhưng giao dịch thực tế hạn chế.

Thép dẹt (HRC, CRC, HDG)

Xu hướng: Giá HRC giao ngay tại Thượng Hải giảm 20 NDT, mất một phần đà tăng hôm qua. Giá chào xuất khẩu thép dẹt tiếp tục tăng (FOB, CFR).

Động lực/Hạn chế: Hoạt động giao dịch trên thị trường vật chất chậm lại mạnh mẽ. Tâm lý hạ nhiệt, lo ngại dư cung và nhu cầu yếu tái xuất hiện. Người bán cố gắng đẩy giá xuất khẩu lên bất chấp giao dịch chậm và giá nội địa giảm nhẹ. Người mua ở Việt Nam và nơi khác im lặng/không quan tâm do giá cao và rủi ro thuế chống bán phá giá (Việt Nam).

Giao dịch: Hoạt động chậm lại đáng kể.

Dự báo: Dự kiến điều chỉnh giảm nhẹ hoặc ổn định ở mức thấp tại thị trường nội địa. Giá chào xuất khẩu giữ cao nhưng giao dịch thực tế rất hạn chế.

Sau phiên tăng giá mạnh mẽ vào ngày 12 tháng 5 nhờ tác động tâm lý từ tin tức vĩ mô, thị trường thép Trung Quốc ngày 13 tháng 5 cho thấy sự hạ nhiệt, hoạt động giao dịch chậm lại và diễn biến giá phân hóa giữa các loại sản phẩm và khu vực.

Tâm lý thị trường chuyển sang thận trọng chờ đợi, với nhu cầu thực tế còn yếu và lo ngại dư cung tái xuất hiện, kìm hãm đà tăng. Mặc dù một số phân khúc có thể nhận hỗ trợ từ chi phí nguyên liệu hoặc khan hàng cục bộ, xu hướng chung được dự báo là ổn định hoặc biến động nhẹ, không còn đà tăng đột biến như ngày trước đó.

 

Nhật Bản

Các nhà xuất khẩu phế Nhật Bản có tâm lý lạc quan, dự đoán thị trường đường biển phục hồi và chạm đáy nhờ tâm lý toàn cầu cải thiện sau tin tức cắt giảm thuế quan Mỹ-Trung và giá tăng ở các thị trường khác. Giá FOB tính bằng Yên giữ ổn định, nhưng giá quy đổi sang USD giảm do đồng Yên mất giá. Mặc dù vậy, để đáp lại triển vọng tích cực, người bán Nhật Bản đã nâng giá chào bán CFR sang châu Á (Việt Nam, Đài Loan). Tuy nhiên, người mua nước ngoài, dù có quan tâm bổ sung hàng, lại do dự chấp nhận mức giá chào cao hơn này do vẫn cao hơn so với các nguồn thay thế. Thị trường đang trong tình trạng người bán đẩy giá lên còn người mua kháng cự, khiến các giao dịch gặp khó khăn do khoảng cách giá.

Việt Nam

Các nhà cung cấp Trung Quốc đã nâng giá chào bán thép cuộn cán nóng (HRC) sang Việt Nam lên mức cao hơn (ví dụ: HRC Q235/SS400 ở mức 474-485 USD/tấn CFR, SAE1006 ở mức 490-495 USD/tấn CFR). Giá chào từ nhà máy Formosa (Việt Nam) cho HRC cao hơn đáng kể so với giá chào từ Trung Quốc cho một số loại. Tuy nhiên, người mua tại Việt Nam đang im lặng về giá đặt mua và không thể hiện sự quan tâm mua hàng đối với HRC Trung Quốc. Lý do chính là giá chào được xem là cao so với các nguồn khác và đặc biệt là lo ngại về khả năng bị áp thuế chống bán phá giá đối với HRC khổ rộng nhập khẩu từ Trung Quốc. Thị trường nhập khẩu thép dẹt tại Việt Nam đang trầm lắng do sự kháng cự về giá và tâm lý thận trọng của người mua.

Các nhà xuất khẩu phế liệu Nhật Bản đã nâng giá chào bán phế liệu sang Việt Nam lên mức cao hơn (ví dụ: Phế H2 từ 330 USD/tấn CFR trở lên, Phế HS từ 360 USD/tấn CFR). Mặc dù người mua tại Việt Nam có thể hiện sự quan tâm đến việc bổ sung hàng, họ lại do dự chấp nhận mức giá chào cao hơn này. Lý do là giá phế Nhật Bản vẫn được xem là cao hơn so với các nguồn thay thế và vật liệu nội địa tại Việt Nam. Thị trường nhập khẩu đang trong tình trạng giá chào tăng nhưng người mua còn kháng cự, khiến các giao dịch gặp khó khăn do khoảng cách giá.