Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Tổng hợp tin tức ngày 11/6/2025

Mỹ

HDG/CRC: Giá thép cuộn cán nguội (CRC) và thép cuộn mạ kẽm nhúng nóng (HDG) của Hoa Kỳ hầu như ổn định vào tuần trước sau khi đà giảm kéo dài nhiều tuần chậm lại.

Giá thép cuộn cán nóng HDG tại Hoa Kỳ giảm 3,75 đô la/tấn ngắn (st) xuống còn 983,50 đô la/st, trong khi giá thép cuộn cán nguội HDG của Hoa Kỳ giảm 50 xu/st xuống còn 1.000,50 đô la/st.

Giá cuộn cán nguội (CRC) của Hoa Kỳ đã lấy lại một số mức giảm trong tuần trước đó khi tăng 14,75 đô la/st lên 1.050,25 đô la/st.

HRC: Giá thép cuộn cán nóng của Mỹ giảm dựa trên các giao dịch hoàn tất từ ​​ngày 2 đến ngày 6 tháng 6 khi Tổng thống Donald Trump tăng gấp đôi thuế thép dẫn đến làn sóng thu mua.

Giá HRC của Hoa Kỳ tại nhà máy phía đông dãy núi Rocky giảm 10,50 đô la/tấn ngắn (st) xuống còn 861 đô la/st. Thời gian giao hàng trung bình của nhà máy Hoa Kỳ đối với HRC giảm xuống còn 3,8 tuần so với bốn tuần trước đó.

Giá nhập khẩu đã tăng thêm 100 đô la/st lên 880 đô la/st ddp Houston trong tuần này.

Giá xuất xưởng thép tấm giảm 10 đô la/st xuống còn 1.120 đô la/st.

Thổ Nhĩ Kỳ

Phế sắt: Thị trường nhập khẩu phế liệu Thổ Nhĩ Kỳ đang tìm kiếm xu hướng hôm thứ Ba khi các nhà máy trở lại sau kỳ nghỉ, nhưng một số lượng lớn người bán đã vắng mặt do các yếu tố cơ bản trái chiều và thiếu rõ ràng.

Giá hàng ngày của HMS 1/2 80:20 vẫn ở mức 337,50 đô la/tấn cfr Thổ Nhĩ Kỳ.

Trên thị trường chặng đường biển ngắn, có rất ít hoạt động giao dịch. Giá phế sắt HMS 1/2 80:20 cfr Thổ Nhĩ Kỳ (tuyến đường biển ngắn) hàng ngày vẫn ở mức 315 đô la/tấn hôm thứ Ba.

Thép cây: Thị trường thép cây Thổ Nhĩ Kỳ vẫn hầu như không hoạt động vào hôm 10/6 vì nhiều người đang nghỉ lễ tuần này sau kỳ nghỉ lễ Eid, kết thúc vào hôm 09/6. Giá cả hầu như không thay đổi, trong khi nhiều người đang quan tâm đến sự thúc đẩy về mặt tâm lý nếu ngân hàng trung ương Thổ Nhĩ Kỳ quyết định cắt giảm lãi suất vào ngày 19 tháng 6 như một số người dự đoán.

Giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ không đổi ở mức 545 đô la/tấn fob trong bối cảnh giao dịch chậm. Giá thép cây trong nước hàng ngày vẫn ở mức 547,50 đô la/tấn xuất xưởng, trong khi giá quy ra đồng lira giảm nhẹ 20 TL/tấn do đồng nội tệ biến động về giá trị so với đồng đô la Mỹ.

Châu Âu

HRC: Giá thép cuộn cán nóng của châu Âu tiếp tục giảm hôm thứ Ba khi các trung tâm dịch vụ tránh mua hàng mới vì nhu cầu yếu và thị trường thép tấm lao dốc.

HRC Bắc Âu có giá là 588,25 euro/tấn, giảm 3,75 euro/tấn, trong khi giá hàng ngày của Ý giảm 1,75 euro/tấn xuống còn 582,75 euro/tấn xuất xưởng. Giá HRC Ý cif hai tuần một lần giảm 5 euro/tấn xuống còn 520 euro/tấn.

Trung Quốc

Quặng sắt: Giá quặng sắt đường biển giảm nhẹ nhưng giao dịch sôi động. Chỉ số ICX 62% giảm 15 cent/dmt xuống 94,50 USD/dmt CFR Thanh Đảo. Giao dịch tại cảng vẫn mạnh mẽ và được ưu tiên hơn do giá thấp hơn; chỉ số PCX 62% giảm 4 NDT/wmt xuống 735 NDT/wmt giao tại xe tải Thanh Đảo. Hợp đồng tương lai tháng 9 trên DCE giảm 0,85% xuống 698,50 NDT/tấn.

Than luyện cốc: Giá than luyện cốc cứng cao cấp của Úc ổn định ở mức 180,55 USD/tấn FOB Úc. Nhu cầu từ Ấn Độ và Trung Quốc vẫn yếu. Giá than luyện cốc nội địa Trung Quốc giảm với than lưu huỳnh thấp cao cấp ở Sơn Tây giảm 10 NDT/tấn xuống 1.170 NDT/tấn, do nguồn cung vượt cầu và kỳ vọng cắt giảm giá than cốc.

Phôi: Giá phôi thép xuất xưởng Đường Sơn ổn định ở 2.900 NDT/tấn. Chào giá xuất khẩu từ Indonesia tăng nhẹ lên 430 USD/tấn FOB nhưng không hấp dẫn người mua do triển vọng thị trường không mấy khả quan.

Quặng viên: Giá ổn định và tăng nhẹ với chỉ số 63% Fe 3,5% alumina tăng 75 cent/dmt lên 103 USD/dmt.

Thép cây: Giá thép cây xuất kho Thượng Hải giảm 10 NDT/tấn xuống 3.060 NDT/tấn do giao dịch chậm chạp khi miền Nam Trung Quốc vào mùa mưa. Hợp đồng tương lai tháng 10 giảm 2 NDT/tấn xuống 2.974 NDT/tấn. Các nhà máy vẫn giữ giá xuất xưởng vững và tăng cắt giảm sản lượng. Chỉ số thép cây xuất khẩu FOB Trung Quốc không thay đổi ở 439 USD/tấn (trọng lượng lý thuyết). Các nhà sản xuất lớn vẫn giữ chào giá xuất khẩu 450-455 USD/tấn FOB (trọng lượng lý thuyết) cho lô hàng tháng 7, bất chấp giá nội địa giảm.

Thép cuộn trơn: Giá xuất khẩu ổn định ở 466 USD/tấn FOB. Áp lực giảm giá xuất khẩu đang gia tăng do các nhà máy chưa bán hết hạn ngạch tháng 7.

HRC: Giá xuất kho chủ đạo Thượng Hải ổn định ở 3.190 NDT/tấn. Hợp đồng tương lai tháng 10 ổn định. Thị trường chờ đợi kết quả đàm phán thương mại Mỹ-Trung. Chỉ số HRC FOB Trung Quốc ổn định ở 448 USD/tấn. Nhu cầu hạ nguồn yếu và tồn kho tăng trở lại.

CRC: Giá giao ngay tại hầu hết các thị trường ổn định, một số nơi giảm nhẹ. Tâm lý thận trọng, tập trung vào việc xuất hàng.

HDG/PPGI: Giá tại Thượng Hải ổn định đến mạnh hơn cho HDG (Bengang 1.0mm 3980 NDT/tấn), nhưng giá tôn màu giảm nhẹ (Baosteel 0.5mm 6600 NDT/tấn). Thị trường Bác Hưng ổn định nhưng có xu hướng giảm nhẹ. Nhu cầu yếu và giao dịch kém.

HRP: Giá thị trường nội địa giảm yếu. Nguồn cung cao nhưng lưu thông khan hiếm. Nhu cầu hạ nguồn giảm rõ rệt do mùa thấp điểm và thời tiết bất lợi.

Nhật Bản

Phế: Thị trường phế Nhật Bản hôm thứ Ba (10/6) ổn định, với hầu hết các nhà cung cấp đang chờ đợi kết quả phiên đấu thầu Kanto ngày 11/6. Giá H2 FOB Nhật Bản duy trì ở mức 41.400 yên/tấn (287 USD/tấn). Thị trường kỳ vọng giá đấu thầu sẽ giảm nhẹ xuống khoảng 41.500 yên/tấn. Nhu cầu từ Việt Nam và Bangladesh được dự báo vẫn ổn định, nhưng các chào giá xuất khẩu hạn chế. Người mua nước ngoài thận trọng do thị trường thép đường biển chậm chạp. Các nhà cung cấp Nhật Bản chủ yếu tập trung vào thị trường nội địa vững chắc và thực hiện các hợp đồng đã ký.

Đài Loan

Phế: Thị trường phế container của Đài Loan giảm hôm thứ Ba (10/6), khi một số nhà cung cấp hạ chào giá để kích thích nhu cầu mua. Giá HMS 1/2 80:20 CFR Đài Loan giảm 3 USD/tấn xuống 295 USD/tấn. Tâm lý bi quan trên thị trường nội địa khiến người bán phải giảm giá, nhưng nhiều nhà máy vẫn chưa chào mua chắc chắn, dự đoán giá sẽ tiếp tục giảm. Nhu cầu phế nhập khẩu yếu do doanh số thép cây chậm và giá phôi cạnh tranh (phôi nhập khẩu khoảng 440 USD/tấn CFR). Các nhà máy Đài Loan đang theo dõi sát doanh số thép cây sau đợt cắt giảm giá 500 Đài tệ/tấn vào ngày 9/6.

Việt Nam

Phế: Thị trường phế Việt Nam hôm thứ Ba (10/6) chứng kiến một số chào giá ổn định cho phế H2 từ Nhật Bản ở mức 325 USD/tấn CFR Việt Nam. Đây là một trong số ít các chào giá xuất khẩu được ghi nhận từ Nhật Bản, khi các nhà cung cấp nước này đang giữ lại nguồn hàng để chờ đợi kết quả phiên đấu thầu Kanto vào ngày 11/6. Nhu cầu và sự ưu tiên của các nhà máy Việt Nam đối với phế liệu Nhật Bản vẫn được ghi nhận là một yếu tố hỗ trợ cho sự tham gia của họ vào phiên đấu thầu này.

HRC: Thị trường HRC Việt Nam hôm thứ Ba (10/6) đang trong giai đoạn chờ đợi và thận trọng. Các nhà máy Việt Nam, điển hình là Formosa Hà Tĩnh, vẫn giữ vững giá chào hàng tháng cho HRC (508-518 USD/tấn CIF Việt Nam cho lô hàng tháng 7 và 8), cao hơn so với chào giá từ Nhật Bản và Malaysia. Tuy nhiên, người mua Việt Nam vẫn im lặng và không đưa ra chào mua cụ thể, với xu hướng chờ đợi thêm chào giá từ các quốc gia khác trước khi đặt hàng. Tâm lý này cho thấy sự không chắc chắn và nhu cầu thị trường chưa thực sự sôi động.