Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Tổng hợp tin tức ngày 19/5/2025

Trung Quốc

Ngày 16 tháng 5 đánh dấu sự kết thúc của một tuần biến động trên thị trường thép Trung Quốc, với xu hướng chung là điều chỉnh giảm nhẹ sau đợt tăng giá đầu tuần.

Nguyên liệu thô

Quặng Sắt: Giá quặng sắt, cả trên thị trường đường biển (Chỉ số ICX 62% và 65% CFR Thanh Đảo) lẫn tại cảng (Chỉ số PCX 62% giao tại xe tải Thanh Đảo), đều giảm trong ngày 16 tháng 5. Sự sụt giảm này chủ yếu do giá thép yếu đi, làm giảm tâm lý thị trường quặng sắt. Giao dịch trên các nền tảng đường biển và tại cảng đều trầm lắng, với chỉ một vài giao dịch được ghi nhận và giá chào có xu hướng giảm tại cảng do người mua không vội bổ sung tồn kho. Hợp đồng tương lai quặng sắt trên DCE cũng đóng cửa thấp hơn.

Than Cốc: Giá than cốc cứng cao cấp giữ ổn định đến giảm nhẹ trên cơ sở FOB Australia. Thị trường vẫn trầm lắng với ít sự quan tâm mua, đặc biệt là từ Ấn Độ. Vòng cắt giảm giá than cốc nội địa Trung Quốc đầu tiên đã kết thúc vào thứ Sáu, phản ánh áp lực giảm giá từ phía cầu và chi phí nguyên liệu.

Thép Xây dựng

Giá thép xây dựng nhìn chung tiếp tục đà tăng nhưng biên độ thu hẹp vào ngày 15/5. Giao dịch trước đó trong đợt phục hồi tương đối tốt. Tồn kho tại nhà máy đã chuyển từ tăng sang giảm, hỗ trợ tâm lý thị trường. Dự kiến giá mở cửa sáng 16/5 sẽ ổn định.

Tuy nhiên, trong ngày 16/5, giá thép cây xuất kho tại Thượng Hải và giá phôi billet xuất xưởng tại Đường Sơn đều giảm nhẹ. Giao dịch thép cây nội địa giảm rõ rệt so với đầu tuần do người mua bớt tích cực. Hợp đồng tương lai thép cây cũng đóng cửa thấp hơn.

Thép Công nghiệp

Thép Cuộn Cán Nóng (HRC): Giá xuất kho tại Thượng Hải giảm nhẹ trong ngày 16 tháng 5. Hợp đồng tương lai HRC cũng giảm. Hoạt động giao dịch trên thị trường giao ngay chậm lại. Giá chào xuất khẩu HRC của Trung Quốc giữ tương đối ổn định trên cơ sở FOB nhưng giá CFR vào các thị trường như Việt Nam giảm do giá chào từ các nguồn khác thấp hơn và người mua Việt Nam thận trọng do tồn kho cao.

Thép Cuộn Cán Nguội (CRC): Giá CRC trên toàn quốc giảm nhẹ trong ngày 16 tháng 5. Giao dịch được mô tả là kém và không ổn định, chủ yếu là các nguồn hàng giá thấp. Tâm lý nhà kinh doanh tiêu cực và nghiêng về chờ đợi.

Thép Tấm Trung Dày: Giá chào bán của các nhà kinh doanh nhìn chung hạ nhẹ 10-30 NDT/tấn. Giao dịch yếu đi và giá giảm nhẹ trong biên độ hẹp.

Thép Tấm Mạ (tính đến 15/5): Giá tiếp tục giảm yếu, giao dịch không thuận lợi.

Tóm lại, ngày 16 tháng 5 chứng kiến sự điều chỉnh giảm giá trên diện rộng, từ nguyên liệu thô đến thành phẩm, phản ánh sự chậm lại của hoạt động giao dịch và tâm lý thận trọng sau đợt tăng giá đầu tuần.

Nhật Bản

Phế

Thị trường xuất khẩu thép phế liệu của Nhật Bản trầm lắng trong tuần do nhu cầu nước ngoài ở mức tối thiểu. Giá chào cao (do chi phí thu gom và đồng yên mạnh) khiến người mua nước ngoài tìm kiếm các lựa chọn thay thế rẻ hơn. Hầu như không có giao dịch xuất khẩu nào được ghi nhận. Giá thép phế H2 fob Nhật Bản giảm nhẹ vào cuối tuần, trong khi giá HS fob giữ ổn định. Giá chào và chào mua cho Việt Nam và Hàn Quốc có sự chênh lệch đáng kể.

Trong khi đó, thị trường nội địa Nhật Bản ổn định, với Tokyo Steel giữ nguyên giá mua và giá thu gom tại cảng duy trì sự vững chắc nhờ hoạt động thu gom cho các lô hàng đã cam kết.

Việt Nam

Thép dẹt

Giá thép cuộn cán nóng (HRC) nhập khẩu vào Việt Nam đã giảm, do giá chào thấp hơn từ các nguồn như Nhật Bản và Malaysia trong bối cảnh nhu cầu khu vực yếu.

Các công ty thương mại đã giảm giá chào HRC (bao gồm mác SAE1006) xuống mức khoảng 500 USD/tấn cfr Việt Nam (từ Nhật Bản) và 495 USD/tấn cfr Việt Nam (từ Malaysia) trong bối cảnh giao dịch chậm. Tuy nhiên, người mua Việt Nam vẫn im lặng về giá chào mua, lo ngại giá sẽ tiếp tục giảm và không vội đặt hàng sau khi đã bổ sung từ các nhà máy nội địa như Hòa Phát và Formosa Hà Tĩnh.

Người mua Việt Nam đứng ngoài cuộc do lượng hàng tồn kho tại các cảng cao, với một lượng lớn thép cuộn khổ rộng đã đặt trước về đến trong hai tuần qua.

Phế

Thị trường thép của Việt Nam cho thấy dấu hiệu phục hồi trong tuần, với giá thép nội địa (đặc biệt là thép cây) tiếp tục tăng do gián đoạn nguồn cung và hoạt động xây dựng trước mùa mưa.

Tuy nhiên, nhu cầu đối với thép phế liệu rời tàu biển sâu vẫn hạn chế do giá kém cạnh tranh. Giá thép phế rời HMS 1/2 80:20 cfr Việt Nam giữ nguyên ở mức 345 USD/tấn trong tuần. Giá chào khoảng 350-355 USD/tấn cfr bị người mua phản kháng.

Bất chấp thị trường thép nội địa mạnh hơn, các nhà máy Việt Nam vẫn thận trọng trong việc tăng giá chào mua thép phế nhập khẩu. Giá chào mua thép phế H2 Nhật Bản duy trì ở mức 320 USD/tấn cfr, và thép phế rời tàu biển sâu HMS 1/2 vẫn dưới 340 USD/tấn cfr.

Người mua tiếp tục ưa chuộng thép phế nội địa và thép phế container do giá cạnh tranh hơn, với thép phế container HMS 1/2 80:20 từ Nam Mỹ giao dịch ở mức 285-290 USD/tấn cfr trong tuần.

Thổ Nhĩ Kỳ

HRC: Các nhà cung cấp cuộn cán nóng (HRC) của Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm giá trong tuần trước khi người mua vẫn giữ mức giá thấp hơn trong các cuộc đàm phán. Các giao dịch đã kết thúc tại thị trường trong nước ở mức 550-565 đô la/tấn xuất xưởng, mức giá chỉ được đưa ra bởi một số nhà máy nhất định muốn chốt được hợp đồng.

Giá HRC Thổ Nhĩ Kỳ trong nước giảm 5 đô la/tấn xuống còn 560 đô la/tấn xuất xưởng, trong khi giá xuất khẩu giảm 15 đô la/tấn xuống còn 540 đô la/tấn fob. Ngược lại, giá nhập khẩu tăng 5 đô la/tấn lên 485 đô la/tấn cfr. Giá nhập bằng đường biển từ Trung Quốc đã tăng nhẹ trong tuần trước sau khi Trung Quốc và Hoa Kỳ nhất trí cắt giảm thuế quan. Các chào giá cho Q195 tới Thổ Nhĩ Kỳ được nghe ở mức 485-495 đô la/tấn cfr giao tháng 7.

Việc giao hàng trên thị trường trong nước cho sản lượng mới hiện là cho tháng 7.

Phế: Giá phế sắt từ Thổ Nhĩ Kỳ nhập khẩu đã ổn định vào hôm thứ Sáu, sau khi tăng 14,50 đô la/tấn trong tháng này.

Giá phế HMS 1/2 80:20 giảm 50 xu/tấn xuống còn 347 đô la/tấn cfr Thổ Nhĩ Kỳ khi một đợt bán hàng khác của Hoa Kỳ xuất hiện.

Trên thị trường thép cây Thổ Nhĩ Kỳ, rất ít nhà máy bán được hàng, khi người mua chỉ mua vừa đủ lượng đang cần.

Giá thép cây nội địa Thổ Nhĩ Kỳ không đổi ở mức 548,50 đô la/tấn xuất xưởng không bao gồm thuế giá trị gia tăng (VAT), quy ra đồng lira tương đương tăng 50 TL/tấn lên 25.550 TL/tấn xuất xưởng bao gồm VAT và giá xuất khẩu không đổi ở mức 546 đô la/tấn fob.

Trên thị trường tuyến đường biển ngắn, người bán cho biết họ cần bán với giá 335 đô la/tấn để bù đắp chi phí, tăng giá chào của họ, với các nhà máy được cho là đã sẵn sàng trả giá ở mức 320 đô la/tấn đối với HMS 80:20 từ Romania và Bulgaria, nhưng không có hoạt động mua vào hôm thứ Sáu.

Giá phế sắt (đường biển ngắn) HMS 1/2 80:20 vẫn ở mức 325 đô la/tấn cfr Thổ Nhĩ Kỳ.

CRC/HDG: Giá thép cuộn cán nguội (CRC) và thép mạ kẽm nhúng nóng (HDG) của Thổ Nhĩ Kỳ vẫn hầu như không thay đổi trong tuần trước, vì các nhà máy cán lại đã tìm đủ đơn hàng cho công suất sản xuất của họ thông qua xuất khẩu và không mấy quan tâm đến việc hạ giá để lấy được các hợp đồng tiếp theo. Nhu cầu từ EU đã suy yếu do lượng hàng tồn cao.

Giá HDG tại Thổ Nhĩ Kỳ ổn định ở mức 710 đô la/tấn fob. Giá xuất khẩu đối với CRC không đổi ở mức 610 đô la/tấn fob và giá trong nước ở mức 665 đô la/tấn xuất xưởng.

Châu Âu

HRC: Giá thép cuộn cán nóng (HRC) của Bắc Âu tăng nhẹ hôm 16/5 khi các nhà máy cố gắng giữ vững lập trường khi các cuộc đàm phán hợp đồng sắp diễn ra, trong khi thị trường Ý giảm nhẹ.

Giá HRC Bắc Âu hôm thứ Sáu là 616,75 eur/tấn, tăng 6,50 eur/tấn xuất xưởng, trong khi giá hàng ngày của Ý giảm 1,25 eur/tấn xuống còn 602,50 eur/tấn xuất xưởng.

Trên thị trường nhập khẩu, một nhà cung cấp Thổ Nhĩ Kỳ đang tìm kiếm mức giá đã bao gồm thuế bán phá giá là 560 euro/tấn cfr, nhưng các thương nhân cho biết mức giá 540 euro/tấn là có thể.