Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Dự báo giá thép 2023: Điều gì tiếp theo cho thị trường?

THỊ TRƯỜNG THÉP

Giá cả biến động mạnh trong 5 tháng đầu năm, tăng trưởng trong Q1 và suy yếu vào Q2, do mất cân đối cung- cầu nổi cộm, yếu tố kinh tế vĩ mô yếu và sự hỗ trợ yếu từ chi phí nguyên liệu thô với cả than cốc và quặng sắt đều giảm giá dưới sự tăng cường giám sát của Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia.

Trong 3 tháng đầu năm, thị trường thép Trung Quốc biến động nhưng tăng trưởng, phù hợp với kỳ vọng thị trường trong Q1, thời gian diễn ra tết Nguyên đán khiến nguồn cung giảm và kỳ vọng thị trường mạnh mẽ. Sản lượng của các nhà máy thép không cao, áp lực cung không lớn.

Tính đến ngày 31/3, chi phí sản xuất thép cây tại các nhà máy lò cao là 4,240 NDT/tấn, tại các nhà máy lò điện là 4,230 NDT/tấn, giá bán thép cây trung bình trên thị trường hiện tại là 4,292 NDT/tấn, trong đó lợi nhuận trung bình của thép cây do các nhà máy lò cao sản xuất là 52 NDT/tấn, lợi nhuận trung bình của các doanh nghiệp lò điện hồ quang sản xuất thép cây là 62 NDT/tấn. Mặc dù giá trong nước tăng nhẹ nhưng giá xuất khẩu thép cây giảm do áp lực nhu cầu chậm từ ngoài nước. Đánh giá thép cây xuất khẩu của Trung Quốc nhích nhẹ 2 USD/tấn so với đầu năm lên 625 USD/tấn fob trọng lượng lý thuyết.

Đối với mặt hàng cuộn cán nóng, tính đến ngày 29/3, giá giao ngay HRC tại Thượng Hải ở mức 4,320 NDT/tấn, tăng 190 NDT/tấn so với ngày 3/1. Tuy nhiên, do chi phí nguyên liệu thô cao nên tính đến cuối tháng 3, các doanh nghiệp thép cuộn nóng trong nước lỗ trên lý thuyết là 27 NDT/tấn.

Trong tháng 2, sản lượng thép cuộn cán nóng và tồn kho tại nhà máy của các nhà máy thép đều giảm nhẹ. Tính đến cuối tháng 2, sản lượng của 35 công ty thép cuộn nóng trong nước là 2.9589 triệu tấn, giảm 13,200 tấn so với tháng trước. Trong cùng thời gian, lượng tồn kho tại các nhà máy thép cuộn nóng của 35 doanh nghiệp thép mẫu trên cả nước là 727,000 tấn, giảm 72,600 tấn so với tháng trước.

Thị trường phát tín hiệu suy yếu chiếm ưu thế vào cuối tháng 3 do giá nguyên vật liệu điều chỉnh, và tâm lý thị trường chịu tác động của hàng loạt yếu tố tiêu cực như ngân hàng nước ngoài phá sản và Cục Dự trữ Liên bang tăng lãi suất, rủi ro thị trường gia tăng. Và điều này gây áp lực kéo giá giảm kể từ tháng 4.

Giá thép cây giao ngay tại Thượng Hải giảm mạnh trong tháng 4, mất khoảng 420 NDT/tấn so với giá cuối tháng 3 xuống 3,770 NDT/tấn (544.61 USD/tấn). Các thương nhân cắt giảm giá liên tục trong tháng với tâm lý lo ngại giá còn giảm sâu hơn nữa vào tháng 5. Các nhà máy thép cũng giảm giá thu mua than cốc 5 lần liên tiếp trong tháng, xuống còn 2,190-2,530 NDT/tấn. Giá quặng sắt cũng giảm hơn 100 NDT/tấn và giá phế thép giảm hơn 200 NDT/tấn, dẫn đến chi phí đầu vào giảm.

Tính đến ngày 28/4, chi phí sản xuất thép cây tại các nhà máy lò cao là 3,825 NDT/tấn, tại các nhà máy lò điện hồ quang là 3,923 NDT/tấn, giá bán thép cây trung bình trên thị trường là 3,877 NDT/tấn, khiến lợi nhuận của các nhà máy lò điện hồ quang giảm xuống -46 NDT/tấn.

Tỷ lệ hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất đã giảm đáng kể. Bị ảnh hưởng bởi lợi nhuận sản xuất âm, tâm lý của các doanh nghiệp đã thay đổi từ chờ đợi sang bi quan. Do lợi nhuận âm, các doanh nghiệp chọn cách tích cực giảm sản xuất và bảo trì. So với cùng kỳ năm ngoái, sản lượng thép xây dựng cả nước thấp hơn một chút so với cùng kỳ năm ngoái.

Giá nội địa giảm và nhu cầu ngoài nước yếu cũng kéo giá xuất khẩu giảm. Các nhà máy giảm chào giá thép cây xuất khẩu xuống 590-600 USD/tấn fob, giảm khoảng 40 USD/tấn so với tháng trước.

Tương tự, thị trường thép cuộn cán nóng trong nước suy yếu, doanh số thị trường giảm mạnh. Mâu thuẫn cung cầu trên thị trường thép cuộn nóng gia tăng, thị trường không nhộn nhịp vào mùa cao điểm. Giá HRC giao ngay tại Thượng Hải giảm khoảng 360 NDT/tấn so với tháng 3 xuống 3,960 NDT/tấn (572.09 USD/tấn). HRC kỳ hạn tháng 10 giảm xuống 3,740 NDT/tấn.  

Tính đến cuối tháng 4, lợi nhuận lý thuyết của các doanh nghiệp thép cuộn nóng trong nước là 7 NDT/tấn, giảm 14 NDT/tấn so với cuối tháng 3. Nhìn chung, giá thép cuộn nóng đã giảm đều đặn trong tháng này, nhưng giá than cốc và quặng sắt thấp hơn đã khiến chi phí giảm và chi phí giảm thậm chí còn mạnh hơn.

Thị trường xuất khẩu im ắng trong tháng và hầu như không có chào mua do những người mua bằng đường biển lo ngại giá sẽ sớm giảm thêm. Các nhà máy lớn của Trung Quốc giảm giá khoảng 50-70 USD/tấn so với tháng 3 xuống hơn 600 USD/tấn fob Trung Quốc.

Các công ty thương mại cũng hạ giá cùng mức xuống 560-570 USD/tấn cfr Việt Nam, tầm 550-560 USD/tấn fob Trung Quốc. Các giao dịch cho thép cuộn loại Q195 của Trung Quốc được bán ở mức 550 USD/tấn cfr Việt Nam về cuối tháng.

Các công ty thương mại giảm giá bán về mức 580-620 USD/tấn cfr Việt Nam đối với thép cuộn loại SAE1006 của Trung Quốc từ mức 670-680 USD/tấn cfr tháng 3, không thu hút.

Giá cả tiếp tục lún sâu trong tháng 5 trong bối cảnh nhu cầu thấp do mưa lớn tại khu vực phía đông và nam đẩy tồn kho gia tăng, và vụ trái mùa đang đến gần ở Trung Quốc. Thị trường giữa tháng được hỗ trợ nhẹ sau khi cơ quan hoạch định kinh tế trung ương của Trung Quốc, NDRC kêu gọi các khoản vay để thúc đẩy đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, thúc đẩy nhu cầu thép nhưng giá nhanh chóng giảm lại vì tình trạng dư cung đè nặng thị trường.

Thép cây giao ngay tại Thượng Hải giảm thêm 280 NDT/tấn so với tháng 4 xuống 3,490 NDT/tấn vào ngày 30/5. Giá thép cây kỳ hạn tháng 10 giảm 200 NDT/tấn xuống 3,460 NDT/tấn. Các công ty thương mại giữ giá chào ở mức 3,510-3,520 NDT/tấn, trong khi giao dịch chậm chạp, kỳ vọng thị trường tiếp tục suy yếu trong tháng 6.

Jiangsu Shagang và các nhà sản xuất lớn khác vào ngày 31/5 sẽ công bố giá giao hàng vào đầu tháng 6 và những người tham gia kỳ vọng các nhà máy sẽ giảm giá 150-200 NDT/tấn để bù đắp cho việc các công ty thương mại giảm giá 150-170 NDT/tấn từ cuối tháng 5 ở thị trường phía đông Trung Quốc.

Tương tự, giá HRC giao ngay tại Thượng Hải giảm 210 NDT/tấn xuống còn 3,750 NDT/tấn ngày 31/5. HRC kỳ hạn tháng 10 giảm 170 NDT/tấn xuống 3,572 NDT/tấn. Nhu cầu có khả năng giảm hơn nữa khi mùa hè đang đến gần vào tháng 6, khi nhiệt độ cao và mưa thường làm chậm các dự án xây dựng ngoài trời. Những người tham gia cho biết giá nguyên liệu sắt cũng chịu áp lực từ tình trạng dư cung, làm suy yếu hỗ trợ chi phí cho thép.

QUẶNG SẮT 

Giá nguyên liệu thô biến động cùng chiều với giá thép, tăng trưởng trong Q1 đầu năm với kỳ vọng nhu cầu tăng trưởng vào mùa cao điểm và giá thép tăng trưởng, sau đó quay đầu giảm dài trong Q2 khi nhu cầu không như kỳ vọng cũng như sự siết chặt kiểm soát giá từ Chính phủ.

Chỉ số quặng 62%fe tăng gần 7 USD/tấn trong Q1 lên 124.45 USD/tấn cfr Thanh Đảo trước khi mất 22 USD/tấn về 102.30 USD/tấn vào cuối tháng 5.

CHÚNG TA CÓ THỂ MONG ĐỢI GÌ TỪ GIÁ THÉP NỬA CUỐI NĂM?

Bất chấp sự tan băng gần đây trong tâm lý thị trường, tương lai vẫn không chắc chắn, vì Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (Fed) và các ngân hàng trung ương lớn khác đã cam kết tiếp tục tăng lãi suất để làm dịu lạm phát. Vào ngày Ngày 3/5, sau khi kết thúc cuộc họp chính sách, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã quyết định tăng lãi suất thêm 0.25 điểm phần trăm, đánh dấu lần tăng lãi suất thứ 10 liên tiếp của Fed (tính từ tháng 3/2022) và đưa phạm vi lãi suất liên bang lên mức 5-5.25%, mức cao nhất kể từ năm 2007, theo hãng tin Reuters. Lãi suất cao như vậy được cho là sẽ gây ra nhiều vấn đề trong tương lai, vì chúng có khả năng làm giảm nhu cầu từ những người tiêu dùng thép chủ chốt như ngành ô tô và xây dựng.

Trong Tầm nhìn ngắn hạn (SRO) cho 2023, Hiệp hội Thép Thế giới (WSA), một cơ quan đầu ngành, cho biết:

“Dự báo hiện tại thể hiện sự điều chỉnh giảm so với dự báo trước đó, phản ánh tác động của lạm phát cao liên tục và lãi suất tăng trên toàn cầu.”

Trung Quốc vừa là nhà sản xuất vừa là nhà tiêu thụ thép lớn nhất thế giới, chiếm hơn một nửa sản lượng và nhu cầu thép thành phẩm toàn cầu. Theo WSA, Trung Quốc đã sản xuất 1,032.8 tỷ tấn thép thô vào năm 2021 – tương đương 52.9% sản lượng toàn cầu. Nước này đã tiêu thụ 666.5 triệu tấn thép thành phẩm, tương đương 51.9% lượng thép sử dụng toàn cầu vào năm 2020.

Là một phần trong chính sách không có Covid của Trung Quốc, quốc gia này đã áp đặt các biện pháp phong tỏa nghiêm ngặt ở Thượng Hải vào tháng 4/2022. Thượng Hải là trung tâm tài chính quan trọng của Trung Quốc và là một trong những cảng lớn của quốc gia. Các hạn chế đã làm gián đoạn nghiêm trọng hoạt động xuất nhập khẩu của đất nước, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc trong quý II. Khi dịch bệnh lan rộng khắp các khu vực khác của đất nước, các nhà chức trách đã phản ứng tương ứng, áp đặt các hạn chế phù hợp với triển vọng không có Covid.

Thị trường đã có những dấu hiệu lạc quan thận trọng khi các biện pháp hạn chế covid ở Trung Quốc được nới lỏng trong năm nay nhưng điều này không kéo dài.

Giá củng cố năm ngoái khi tình trạng thiếu điện và khí đốt tự nhiên hạn chế sản xuất thép. Tuy nhiên, rủi ro chiếm ưu thế. Trên thực tế, rủi ro tăng giá mạnh duy nhất cho đến cuối năm 2022 là tình trạng thiếu năng lượng trở nên nghiêm trọng đến mức sản xuất thép bị cắt giảm nghiêm trọng.

Nỗi lo sợ về nguồn cung thép phần lớn đã biến mất. Sự phục hồi gần như ngay lập tức trong xuất khẩu quặng, phế liệu và bán thành phẩm của Nga có nghĩa là sự gián đoạn sản xuất thép không đáng kể ở châu Âu hoặc Bắc Mỹ. Hầu như rủi ro duy nhất đối với giá thép là lệnh cấm vận thép và nguyên liệu thô của Nga. Tuy nhiên, điều này dường như khó xảy ra vì tất cả các nỗ lực chính trị đều nhắm vào dầu mỏ.”

Giá thép vẫn biến động liên tục, giảm trong mùa tiêu thụ thấp điểm hiện tại, mặc dù vẫn cao hơn mức trung bình dài hạn. Tương tự như các năm trước, giá giảm sau lễ hội thuyền rồng nửa cuối tháng 6 do sản lượng thép tăng và cầu yếu gây sức ép lên giá. Sản lượng của các nhà máy thép lớn của Trung Quốc đã tăng 1.42% lên 2.2627 triệu tấn/ngày vào ngày 11-20/6, so với ngày 1-10/6. Theo Hiệp hội Sắt thép Trung Quốc (Cisa), hàng tồn kho các sản phẩm thép của các nhà máy tăng 2.64% so với cùng kỳ.

Các chính sách hỗ trợ từ Chính phủ trước đó đã thất bại trong việc thúc đẩy được thị trường mạnh mẽ, trong khi tin tức về việc FED gần như chắc chắn tăng lãi suất ở tháng 7 cũng khiến thị trường chịu áp lực lớn hơn.

Thị trường bất động sản yếu, nhu cầu chậm và sản lượng thép tăng trong mùa tiêu thụ thấp điểm tháng 7-tháng 8 do các yếu tố thời tiết bất lợi sẽ còn gây sức ép lên giá. Thị trường đang chờ đợi số liệu kinh tế vĩ mô nửa đầu năm song dự kiến sẽ là những con số không như kỳ vọng.

Yếu tố chi phối chính cho thị trường nửa cuối năm tiếp tục vẫn là cung- cầu, và các chính sách kích thích của Chính phủ. Chính phủ Trung Quốc đã cam kết sẽ tiếp tục ban hành các chính sách thúc đẩy kinh tế, dự kiến sau hội nghị kinh tế cấp cao trong tháng 7. Điều này đang là động lực hỗ trợ dài hạn trên thị trường.

Trong ngày 27/6, Thủ tướng Trung Quốc Li Qiang cho biết tại một sự kiện của Diễn đàn Kinh tế Thế giới ở Thiên Tân rằng Bắc Kinh sẽ đưa ra các biện pháp hiệu quả và thực dụng hơn để thúc đẩy nhu cầu và tiếp thêm sinh lực cho thị trường. Li cho biết nước này đang phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) 5% vào năm 2023 đã được đặt ra vào đầu năm nay và tự tin rằng có thể đạt được sự phát triển kinh tế chất lượng cao trong dài hạn. Điều này đang thúc đẩy tâm lý thị trường, thắp lên hy vọng lạc quan cho nửa cuối năm.

Nhìn chung, thị trường sẽ còn đối mặt với các áp lực tiếp tục từ:

_Nhu cầu chậm do bất lợi thời tiết nắng nóng từ hiện tượng El Nino trong năm nay.

_Bất ổn từ chiến tranh Nga - Ukraina.

_ Cơ quan hoạch định kinh tế chính của Trung Quốc tăng cường kiểm tra giá nguyên liệu thô.

_Sản lượng thép tăng, tồn kho tích lũy tăng.

_Các chính sách kích thích được ban hành nhưng hiệu quả không cao.

Yếu tố hỗ trợ:

_Chi phí nguyên liệu thô cao.

_Khả năng cắt giảm sản xuất thép vì yếu tố thiếu năng lượng.

_Nhu cầu phục hồi sau khi trượt giảm dài.

_ Chính sách kích thích kinh tế được đẩy mạnh nửa cuối năm, thúc đẩy tâm lý.

Giá thép dự kiến tiếp tục biến động trong nửa cuối năm, tăng giảm luân phiên và có thể phục hồi mạnh hơn vào thời điểm tháng 9.  

Trong quý cuối năm, các cắt giảm sản xuất sẽ hỗ trợ chính cho giá tăng. Quý cuối năm thường là thời điểm các nhà máy và trung tâm dịch vụ đẩy nhanh thanh lý hàng tồn kho nên gây áp lực lên giá. Bù lại, Trung Quốc đang đẩy mạnh chiến dịch cắt giảm khí thải để thực hiện mục tiêu trung hòa cacbon, cộng với việc giảm sản xuất để hạn chế thua lỗ và tiết kiệm năng lượng, giúp hạn chế sản xuất. Sản lượng thép giảm giúp nới lỏng áp lực cung- cầu vào mùa tiêu thụ thấp điểm.  

Phạm vi biến động giá thép dự kiến vẫn hạn chế vào tầm 40-60 USD/tấn. Giá cả phục hồi trong Q3, Q4 nhưng không thể giúp giá quay trở lại mức đầu năm. Dự kiến phạm vi chào giá HRC SAE1006 Trung Quốc về Việt Nam phục hồi lên khoảng 615-620 USD/tấn cfr cuối năm, thấp hơn 10-20 USD/tấn so với thời điểm đầu năm.

Giá thép phục hồi cũng sẽ hỗ trợ giá nguyên liệu thô. Đồng thời, các cắt giảm sản xuất tác động ngược lại đến tiêu thụ. Do đó, giá quặng sắt dự kiến cũng sẽ biến động theo giá thép. Phạm vi giá dao động tầm 110-115 USD/tấn cfr Thanh Đảo cho loại quặng 62%fe, giảm nhẹ so với đầu năm.

Lưu ý:  Dự báo trên chỉ mang tính tham khảo. Quý khách hàng nên tham khảo thêm nhiều nguồn tin khi quyết định mua bán.

 

 

ĐỌC THÊM