Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Dự báo thị trường TQ ngày 13/10/2023

Giá thép nội địa của Trung Quốc nhích nhẹ nhờ tồn kho thép giảm, giao dịch nội địa được cải thiện, cũng như tâm lý được thúc đẩy bởi các kế hoạch cải tạo làng đô thị của Trung Quốc trong khi giá thị trường đường biển giữ ổn định do thương mại xuất khẩu chậm lại.

Thị trường trong nước

Thép xây dựng

Tâm lý đã phục hồi sau khi Bộ Nhà ở và Phát triển Đô thị-Nông thôn Trung Quốc cho biết họ sẽ đều đặn thúc đẩy các dự án cải tạo làng mạc ở các thành phố đô thị cực lớn, lần đầu tiên được triển khai vào tháng 7 năm nay. Bộ cho biết ba loại phương pháp cải tạo đã được thúc đẩy – phá dỡ và xây dựng lại nhà ở, cải thiện nhà ở thường xuyên và kết hợp cả hai.

Tồn kho thép cây của các thương nhân và nhà sản xuất đã giảm 160,000 tấn trong tuần này, so với mức tăng 650,000 tấn vào tuần trước. Một số nhà máy Trung Quốc đã tăng giá xuất xưởng thanh cốt thép thêm 10-20 NDT/tấn.

Thép cây giao ngay Thượng Hải tăng 10 nhân dân tệ/tấn (1.37 USD/tấn) lên 3,640 NDT/tấn vào ngày 12/10. Giá thép cây kỳ hạn tháng 1 tăng 0.3% lên 3,627 NDT/tấn. Tâm lý thị trường ấm lên được hỗ trợ bởi tồn kho thép giảm và thương mại được cải thiện.

Một số người tham gia kỳ vọng giá thanh cốt thép sẽ chạm đáy vì giá thanh cốt thép hiện tại thấp hơn chi phí sản xuất của hầu hết các nhà máy.

Thép công nghiệp

HRC giao ngay tại Thượng Hải không đổi ở mức 3,730 NDT/tấn (510.79 USD/tấn) vào ngày 12/10. Hợp đồng tương lai HRC tháng 1 trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải tăng 0.43% lên 3,731 NDT/tấn.

Tồn kho HRC do các công ty thương mại và nhà máy nắm giữ đã tăng hơn 10,000 tấn trong tuần này so với mức tăng gần 200,000 tấn vào tuần trước, trong khi các nhà máy giảm sản lượng khoảng 30,000 tấn.

Một công ty thương mại miền đông Trung Quốc cho biết nhu cầu đã không trở lại mức trước kỳ nghỉ lễ Quốc khánh Trung Quốc và việc cắt giảm sản lượng của các nhà máy sẽ là yếu tố chính cho xu hướng thị trường trong tương lai.

Thị trường xuất khẩu

Một nhà máy lớn của Trung Quốc đã cắt giảm giá chào 20 USD/tấn từ mức trước kỳ nghỉ lễ xuống còn 560 USD/tấn fob Trung Quốc cho SS400, phù hợp với các nhà máy lớn khác của Trung Quốc đưa ra mức chào ở mức và trên 540 USD/tấn fob Trung Quốc.

Người mua đường biển vẫn đứng ngoài chờ đợi xu hướng thị trường rõ ràng. Các công ty thương mại tích cực mời thầu ở mức 518-520 USD/tấn cfr Việt Nam cho cuộn loại Q195, gây khó khăn cho việc bán HRC SS400 của Trung Quốc ở mức trên 525 USD/tấn cfr cho Việt Nam.

Thị trường Việt Nam tương đối ổn định, với giá chào không thay đổi ở mức 570 USD/tấn cfr Việt Nam đối với loại cuộn SAE1006 do các nhà máy lớn của Trung Quốc sản xuất. Nhưng không có hồ sơ dự thầu nào do nhu cầu thép trong nước thấp và người mua dự đoán giá sẽ sớm giảm thêm.

Triển vọng

Thị trường sau lễ yếu và nhu cầu dự kiến sẽ còn chậm trong tháng 10-tháng 11 khi bước vào mùa mưa, gây bất lợi cho ngành xây dựng, kéo giá giao ngay giảm.

Rủi ro từ phía cung vẫn tiếp diễn vì các cắt giảm sản xuất còn nhỏ lẻ. Trong năm nay chưa có các tin đồn về cắt giảm sản xuất cuối năm quy mô rộng như những năm ngoái, khiến thị trường hoài nghi về áp lực cung -cầu tiếp diễn tới cuối năm.

Bù lại, giá cả được hỗ trợ bởi yếu tố chi phí nguyên liệu thô vững chắc cũng như sự thua lỗ của các nhà máy. Chi phí quặng sắt và than cốc tăng mạnh, sẽ làm điểm tựa cho giá thép. Ngoài ra, do giá thép thua lỗ, với mức lỗ lên tới 200 NDT/tấn cho thép cây nên các nhà máy sẽ hạn chế giảm giá và tìm cách tăng lại để kiếm lời.

Chính quyền cũng sẽ cố gắng tung ra nhiều chính sách hỗ trợ ngành thép cuối năm và đầu năm với kỳ vọng kinh tế vĩ mô phục hồi vào đầu năm 2024.

Do đó, giá thép kỳ vọng biến động yếu trong tháng 10-tháng 11 và sự phục hồi nhỏ có thể đến vào tháng 12-đầu năm 2024 với kỳ vọng kinh tế vĩ mô tốt hơn và tiêu thụ phục hồi các tháng đầu năm 2024. Phạm vi biến động tầm 30-40 USD/tấn, với giá chào HRC SAE1006 Trung Quốc về Việt Nam dao động gần 580-590 USD/tấn cfr Việt Nam tháng 12/2023-tháng 1/2024.