Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thép xây dựng tuần 18/2016

 

THỊ TRƯỜNG THÉP XÂY DỰNG VIỆT NAM TUẦN 18/2016

Từ ngày 29 đến ngày 05-04-2016

1.              Thị trường thép xây dựng trong nước

Thị trường tiêu thụ thép xây dựng đã thực sự khởi động trở lại cả về lượng tiêu thụ và trong sản xuất. Theo báo cáo từ các đơn vị sản xuất, lượng sản phẩm sản xuất đã tăng từ tháng này do đó lượng tiêu thụ cũng phải tăng theo. Khó khăn hiện nay là các mặt hàng thép xây dựng nhập khẩu vào thị trường nội địa với các thông tư hướng dẫn Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định 862/QĐ-BCT về áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời đối với mặt hàng phôi thép và thép dài nhập khẩu vào Việt Nam từ các nước/vùng lãnh thổ khác nhau. Theo đó, một số mặt hàng phôi thép được áp dụng mức thuế tự vệ tạm thời là 23,3%, mặt hàng thép dài được áp dụng mức thuế tự vệ tạm thời là 14,2%. Tuy nhiên, quyết định trên của Bộ Công Thương lại chưa nêu cụ thể về tính hiệu lực áp dụng quyết định dẫn đến khó khăn cho cơ quan Hải quan khi thực hiện.

Hiện nhu cầu thép xây dựng trong nước chỉ dao động ở mức 6,3 triệu tấn/năm, trong khi đó, tổng công suất thép xây dựng cả nước lên 9 triệu tấn/năm, sản lượng dư thừa là gần 3 triệu tấn. Chắc chắn với sự dư thừa sản lượng thép xây dựng ngày càng nhiều, các doanh nghiệp thép sẽ cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn; muốn xuất khẩu cũng không dễ vì đòi hỏi chất lượng cao; chưa kể lượng thép giá rẻ nhập khẩu vào Việt Nam cũng không phải ít.

Trong khi đó, một tình trạng cấp phép tràn lan trong lĩnh vực này vẫn xảy ra. Nhiều dự án thép công suất lớn được cấp phép nhưng không triển khai, do không đủ năng lực, ì ạch kéo dài nhiều năm. Một số nhà máy đã bị rút giấy phép nhưng vẫn còn các nhà máy dù không triển khai vẫn xin nâng công suất.

Trình độ công nghệ của các doanh nghiệp thép Việt vẫn bị đánh giá là rất kém, nhiều doanh nghiệp vì không đủ năng lực tài chính nên vẫn vận hành các lò điện cũ kỹ, hao tốn nhiên liệu và chi phí cao. Công suất nhỏ cũng khiến nhiều doanh nghiệp Việt khó lòng phát huy được lợi thế về quy mô để tạo ra các sản phẩm cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài, bất chấp được hưởng lợi về mặt địa lý tức thị trường tiêu thụ ngay trong nước giúp giảm giá vận chuyển.

Thậm chí ngay cả phôi thép nguyên liệu đầu vào cho các sản phẩm thép khác, lĩnh vực mà Hòa Phát có ưu thế khi có thể tận dụng các mỏ quặng lớn trong nước từ lệnh cấm xuất khẩu khoáng sản của Chính phủ, cũng không thể so bì với lượng nhập khẩu giá rẻ phôi thép từ các doanh nghiệp Trung Quốc, bởi giá thành cao hơn.

2.    Thông tin thị trường giá thép xây dựng các khu vực, nhà máy

Sau khi áp thuế tự vệ tạm thời, tổng khối lượng thép xây dựng trong nước được tiêu thụ ở quý I/2016 đạt trên 2 triệu tấn, tăng hơn 55% so với cùng kỳ năm 2015. Tuy nhiên, mức tăng trưởng trên khó có thể kéo dài khi nguồn cung thép giá rẻ từ Trung Quốc cũng như các nước vẫn ồ ạt vào Việt Nam. Nhất là vào năm 2018, khi thuế nhập khẩu thép hợp kim về 0% càng tăng thêm lợi thế giá thấp của thép Trung Quốc. Chưa kể, khi các dự án thép của nước ngoài đầu tư đi vào hoạt động sẽ khiến sản lượng thép nội địa tăng lên chóng mặt.

 Bảng giá sau đây được tham khảo tại thị trường Miền Nam, sản phẩm của Công ty thép Pomina. Giá bán tại khu vực trung tâm, đã bao gồm thuế VAT.

Bảng giá bán thép xây dựng Pomina

STT

Chủng loại

Mác Thép

Đvt

Giá

1

      Thép cuộn Ø6

CT3

      đ/kg

11.000

2

Thép cuộn Ø8

CB300

11.000

7

Thanh vằn D10

 

CB300

11.200

8

Thanh vằn D12

11.100

9

Thanh vằn D14

11.050

10

Thanh vằn D16

11.050

11

Thanh vằn D18

11.050

12

Thanh vằn D20

11.050

13

Thanh vằn D22

11.050

14

Thanh vằn D32

11.050

 

Bảng giá sau đây được tham khảo tại thị trường Miền Nam, sản phẩm thép Việt Nhật. Giá bán đã bao gồm thuế VAT.

Bảng giá bán thép xây dựng Việt Nhật

STT

Chủng loại

Mác Thép

Đvt

Giá

1

      Thép cuộn Ø6

Cuộn

      đ/kg

11.250

2

Thép cuộn Ø8

11.250

3

Thanh vằn D10

Cây

11.170

4

Thanh vằn D12

11.050

5

Thanh vằn D14

11.050

6

Thanh vằn D16

11.050

7

Thanh vằn D18

11.050

8

Thanh vằn D20

11.050

Giá bán thép cuộn tròn trơn xây dựng một số thị trường được tổng hợp theo các ngày trong tuần qua:

Bảng giá thép xây dựng

Ngày

Sản phẩm

Khu vực

Đvt

Giá

 

4/5/16

Thép cuộn Ø6 Pomina

Bình Dương

đ/kg

15.000

Thép cuộn Ø8 Pomina

15.000

Thép cuộn Ø6

Đồng Tháp

14.200

Thép cuộn Ø8

14.200

Thép cuộn Ø6 LD

Đồng Nai

14.000

Thép cuộn Ø8 LD

14.000

Thép cuộn Ø6 LD

Trà Vinh

13.800

Thép cuộn Ø8 LD

13.800

Thép cuộn Ø6

Long An

13.650

Thép cuộn Ø8

13.650

Thép cuộn Ø6

Bạc Liêu

13.600

Thép cuộn Ø8

13.500

Thép cuộn Ø6

An Giang

12.370

Thép cuộn Ø8

12.370

Thép cuộn Ø6

Hậu Giang

15.000

Thép cuộn Ø8

15.000

 

Thị trường Long An, giá bán sản phẩm thép cuộn có giá bán khá thấp trong các tuần qua, lượng sản phẩm tiêu thụ chỉ ở mức khiêm tốn do nhu cầu từ thị trường vẫn ở mức thấp. Giá bán công bố đối với các dòng sản phẩm thép cuộn Ø6 và Ø8 có giá là 13.650 ngàn đồng/kg tại các đại lý bán lẻ.

Thị trường Bình Dương, giá bán sản phẩm thép cuộn Pomina khá ổn định trong tuần qua, lượng sản phẩm tiêu thụ chỉ ở mức khiêm tốn do nhu cầu từ thị trường vẫn ở mức thấp. Giá bán công bố đối với các dòng sản phẩm thép cuộn Ø6 và Ø8 có giá là 15 ngàn đồng/kg.

Thị trường Đồng Nai, lượng tiêu thụ không có chuyển biến đáng kể nào trong tuần này, giá bán luôn được duy trì ở mức cao qua nhiều tuần. Giá bán thép xây dựng được công bố trong đầu tuần này là 14 ngàn đồng/kg đối với thép cuộn Ø6 và Ø8, giá bán khá cao ở thời điểm hiện tại.

Thị trường Trà Vinh, giá bán lẻ thép cuộn tròn trơn xây dựng LD duy trì mức giá bán thấp hơn các tuần trước đó. Giá bán công bố đối với các dòng sản phẩm thép xây dựng Ø6 là 12.8  ngàn đồng/kg và Ø8 là 13.8 ngàn đồng/kg. Lượng sản phầm bán ra đều đặn, có chiều hướng tăng dần.

Bên cạnh các sản phẩm nhập khẩu, sản phẩm thép hình cũng đã được sản xuất ở trong nước bởi công ty Posco SS-Vina. Hiện nhà máy đã đi vào sản xuất ổn định và cung cấp với số lượng đa dạng sản phẩm thép hình điển hình là H-beam. Giá bán có sự chênh lệch giữa sản phẩm sản xuất trong nước và sản phẩm nhập khẩu, giá bán sản phẩm trong nước thấp hơn các sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc, Hàn Quốc...

 

Hiện tại, công ty đã tăng cướng quảng bá và tham gia các hội thảo giới thiệu sản phẩm mới tại Hà Nội và TP HCM, đã có nhiều đơn vị thăm quan và nhận được nhiều tín hiệu tích cực từ thị trường. Sản phẩm của công ty đáp ứng được nhiều tiêu chuẩn khắt khe đảm bảo cung cấp cho các đơn vị khó tính trong các lĩnh vực như đóng tàu, chế tạo...

 

Bảng giá sau đây được tham khảo tại thị trường Miền Nam, sản phẩm thép hình của công ty Posco SS Vina. Giá bán đã bao gồm thuế VAT

 

Bảng giá thép xây dựng H-Beam

Sản phẩm

Kích thước

Chiều dài

Mác thép

Tiêu chuẩn

Giá

H-Beam

H 200x200x8x12

12m

SS400

JIS

11.300

H-Beam

H 200x100x5.5x8

12m

SS400

JIS

11.300

H-Beam

H 150x75x5x7

12m

SS400

JIS

11.300

H-Beam

H 150x150x7x10

12m

SS400

JIS

11.300

H-Beam

H 250x125x6x9

12m

SS400

JIS

11.500

H-Beam

H 300x150x6.5x9

12m

SS400

JIS

11.500

H-Beam

H 300x300x10x15

12m

SS400

JIS

11.500

H-Beam

H 350x175x10x11

12m

SS400

JIS

11.500

H-Beam

H 400x200x8x13

12m

SS400

JIS

11.500

H-Beam

H 450x200x9x14

12m

SS400

JIS

11.700

H-Beam

H 500x200x10x16

12m

SS400

JIS

11.700

H-Beam

H 588x300x12x20

12m

SS400

JIS

12.200

 

Bảng giá sau đây được tham khảo tại thị trường Miền Nam, sản phẩm thép hình nhập khẩu từ Trung Quốc được bán trên thị trường. Giá bán chưa bao gồm thuế VAT

 

Bảng giá thép xây dựng H-Beam

Sản phẩm

Kích thước

Chiều dài

Mác thép

Tiêu chuẩn

Giá

H-Beam

H 100x100x6x8

12m

SS400

JIS

12.900

H-Beam

H 125x125x6.5x9

12m

SS400

JIS

12.900

H-Beam

H 150x150x7x10

12m

SS400

JIS

13.100

H-Beam

H 200x200x8x12

12m

SS400

JIS

13.100

H-Beam

H 250x250x9x14

12m

SS400

JIS

13.100

H-Beam

H 300x300x10x15

12m

SS400

JIS

13.500

H-Beam

H 350x350x12x19

12m

SS400

JIS

14.000

H-Beam

H 400x400x13x21

12m

SS400

JIS

14.500

 

3.              Dự báo thị trường thép xây dựng

Năm 2016 được coi là năm của thử thách và cơ hội đối với ngành Thép Việt Nam. Các hiệp định thương mại tự do đang và sắp có hiệu lực cũng như các dấu hiệu của kinh tế trong nước ổn định sẽ là đòn bẩy cho ngành phát triển.

Bước sang năm 2016, Hiệp hội Thép Việt Nam dự báo tổng sản lượng thép sản xuất trong nước tiêu thụ sẽ không tăng mạnh, do đầu tư cho các công trình công xây dựng cầu, đường lớn không được thuận lợi như năm 2015. Bên cạnh đó, lượng thép xuất khẩu được dự báo sẽ giảm hơn bởi sức ép từ các vụ kiện chống bán phá giá ngày một dày đặc, khiến cho thép Việt Nam vào các nước hết sức khó khăn. Bộ Công Thương khuyến cáo các doanh nghiệp cần tiếp tục xây dựng đội ngũ chuyên nghiệp về phòng vệ thương mại để sẵn sàng đương đầu với các cơ quan điều tra nước ngoài và có kế hoạch đưa ra sớm. Đồng thời, cần chuẩn hóa và chuẩn bị tốt các số liệu, không chỉ cho các cơ quan điều tra nước ngoài, mà cả cho Cục Quản lý cạnh tranh khi đề nghị bảo hộ và phòng vệ thương mại. Về lâu dài, doanh nghiệp thép Việt Nam cần tiếp tục đầu tư công nghệ mới, nhất là theo hướng sản xuất xanh để tăng tính cạnh tranh.

Như vậy, ngành thép năm 2016 tiếp tục có những cơ hội từ sự ổn định kinh tế vĩ mô và hồi phục của thị trường bất động sản, xây dựng, cũng như cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu mà hội nhập đem lại. Nhưng nguy cơ trở thành thị trường tiêu thụ thép xuất khẩu, hoặc là thị trường trung chuyển thép, bỏ lỡ các cơ hội có được từ các cam kết hội nhập, cũng là thách thức rất lớn đặt ra cho ngành thép Việt Nam. Trước mắt, Cộng đồng Kinh tế ASEAN đã hình thành, đòi hỏi các đơn vị trong ngành cần nỗ lực cải thiện năng lực cạnh tranh, nắm bắt cơ hội, hạn chế tối đa thách thức, để nhanh chóng hòa nhập vào sân chơi chung của khu vực và tiếp đó là sân chơi toàn cầu.

Tuy nhiên, ngành thép nội địa không thể chỉ trông chờ vào thuế, bởi trước đó, theo dự báo của Hiệp hội thép, trong tương lai sẽ có thêm 5 dự án thép công suất lớn đi vào hoạt động với tổng công suất 1,5 triệu tấn/năm. Điều này dự báo sẽ dẫn đến tình trạng cạnh tranh gay gắt do sản lượng dư thừa. mặc dù VSA đã nhiều lần cảnh báo về sự bùng nổ của ngành thép, nhưng dường như ngành thép trong nước đang làm khổ chính mình khi các dự án thép cứ đua nhau triển khai.

Lưu ý: Bảng giá trên đây được tham khảo tại các công ty, đại lý chuyên cung cấp thép xây dựng. Vì vậy bảng giá bán này chỉ để tham khảo không phải là giá cố định mà được điều chỉnh dựa trên số lượng lô hàng, khách hàng khi mua tại các công ty hay đại lý, phương tiện vận chuyển và hình thức thanh toán tùy thuộc vào vùng miền.

 

4.    Bảng giá các mặt hàng cơ bản Việt Nam tuần 18

 

 

 

 

Chào giá (đ/kg)

Xuất xứ

Giá

Tăng /giảm

Cuộn trơn Ø6.5

Trung Quốc

  11.200

Giảm 400

Cuộn trơn Ø8 

Trung Quốc

  11.500

Giảm 400

Thép tấm 3,4,5 mm

Trung Quốc

  11.100

Giảm 400

Thép tấm 6,8,10,12 mm

Trung Quốc

  11.100

Giảm 400

HRC 2mm

Trung Quốc

  11.200

Giảm 300

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tổng quan thị trường thép Trung Quốc tuần 18/2016

Thị trường trong nước

Thép xây dựng

Tại thị trường Thượng Hải hôm 4/5, cuộn trơn Q195 6.5mm được định giá tại 2.820-2.840 NDT/tấn (434-437 USD/tấn), giảm 150 NDT/tấn (23 USD/tấn) so với tuần trước đó.

Giá thép cây giao ngay ở miền bắc Trung Quốc tiếp tục giảm trong ngày làm việc thứ 7 liên tiếp. Các đại lý vẫn cứ tiếp tục hạ giá xuống để thanh lý hàng tồn vì suy đoán giá sẽ rớt sâu hơn trong bối cảnh niềm tin thị trường bi quan, đây là hệ quả từ việc tồn kho thị trường nhiều hơn do lượng hàng giao từ các nhà máy gia tăng kể từ cuối tuần trước trong khi giá thép tương lai lại suy yếu. Bắt đầu từ ngày 26/4, giá thép cây giao ngay đã rớt liên tục với tổng cộng 300 NDT/tấn (46 USD/tấn). Tốc độ lao dốc ngày càng nhanh kể từ khi các đại lý mở cửa trở lại sau kỳ nghỉ lễ 3 ngày hồi cuối tuần trước. Trong tuần này giá đã giảm 245 NDT/tấn và đến ngày thứ Năm thép cây HRB400 đường kính 18-25mm xuống còn 2.845-2.875 NDT/tấn (439-443 USD/tấn) xuất xưởng, gồm 17% VAT.

Thép công nghiệp

Giá trong nước cho CRC SPCC 1.0mm là 3.550-3.630 NDT/tấn (548-560 USD/tấn), giảm 95 NDT/tấn so với tuần trước.

Sau khi phục hồi được 120 NDT/tấn vào ngày thứ Sáu tuần trước, giá HRC đã rớt mạnh 140 NDT/tấn trở lại ngay ngày làm việc đầu tiên sau lễ. Hôm 3/5, Platts định giá HRC Q235 5.5mm tại thị trường giao ngay Thượng Hải ở mức 2.980-3.000 NDT/tấn xuất xưởng gồm 17% VAT. Cùng ngày trên sàn Shanghai Futures Exchange, hợp đồng HRC giao kỳ hạn tháng 10 chốt tại 2.574 NDT/tấn, giảm 163 NDT/tấn tức 6% so với ngày giao dịch trước đó.

Thị trường xuất khẩu

Sau khi đà tăng liên tiếp được chứng kiến suốt tháng 4 thì giá CRC xuất khẩu của Trung Quốc đã sụt giảm từ tuần trước do giá trong nước đang suy yếu. Platts định giá CRC SPCC 1.0mm ở mức 495-505 USD/tấn FOB hôm thứ Ba, mức trung bình 500 USD/tấn FOB là thấp hơn 5 USD/tấn so với tuần trước đó. Các giao dịch ở cả thị trường trong nước và xuất khẩu đã chậm lại trong tuần này. Nhưng hầu hết các nhà xuất khẩu đều không tin là giá sẽ rớt mạnh. Điều này là do các nhà máy sẽ sản xuất và bán nhiều HRC hơn tới thị trường vì hiện tại thép cán nóng có lời hơn so với CRC.

Giá giao ngay cho cuộn trơn xuất khẩu sụt giảm từ ngày 28/4-4/5 khi các nhà cung cấp hạ chào giá đáng kể để phù hợp với giá giao ngay ở thị trường trong nước. Hôm thứ Tư, Platts định giá thép dây dạng lưới 6.5mm ở mức 389-395 USD/tấn FOB, giảm 26 USD/tấn so với một tuần trước đó. Đây là mức giảm hàng tuần lớn nhất kể từ ngày 10/9/2014. Có rất ít yêu cầu trong bối cảnh thị trường bất lợi khi hầu hết người mua ở nước ngoài lo lắng rằng giá có thể rớt sâu hơn.

Tương tự thị trường HRC cũng nối tiếp đà giảm của tuần trước, sau khi mở cửa trở lại sau những ngày nghỉ lễ thì giá liên tục giảm qua các ngày và với tốc độ nhanh hơn. Như vậy trong ba ngày giao dịch giá HRC SS400 3.0mm đã “bốc hơi” tổng cộng 18,5 USD/tấn xuống còn 412-420 USD/tấn. Nguyên nhân một phần là bị ảnh hưởng tiêu cực bởi thị trường trong nước khiến cho những người đang có hàng trong tay tìm mọi cách để bán ra vì sợ giá sẽ còn rớt sâu hơn nữa. Hiện nay hầu hết người mua ở nước ngoài vẫn đang đợi bên lề để quan sát diễn biến thị trường ra sao.

Cùng chung xu hướng, giá thép cây đã để mất đà tăng và giảm trở lại sau khi phục hồi nhẹ trước kỳ nghỉ cuối tuần qua. Chính sự suy yếu của thị trường trong nước đã làm “xói mòn” niềm tin và giữ người mua đứng bên ngoài vì lo sợ giá vẫn chưa chạm đáy. Tính đến ngày 5/5, thép cây BS500 đường kính 16-20mm đã giảm tới 21,5 USD/tấn so với tuần trước xuống còn 390-394 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế.

 

 

 

Tổng quan thị trường thép thế giới tuần 18/2016

Mỹ

Nhà máy Đông Bắc Mỹ cuối cùng đã chốt giá mua phế tháng 05 hôm thứ Năm theo đó giá mua phế sạch và phế vụ ở mức cao hơn 20-30usd/tấn dài so với giá mua tháng 04 và phế thượng hạng tăng 30-40usd/tấn dài.

Thị trường Đông Nam vẫn chậm chốt giá hơn với nhà máy và đại lý vẫn đang tiếp tục thảo luận trong tối thứ Năm. Đại lý đang tìm kiếm mức giá tăng khoảng 30usd/tấn dài cho phế vụn và 40usd/tấn dài cho phế thượng hạng trong khi giá mua của nhà máy được nghe nói là tăng 20usd/tấn dài cho phế vụn và 30-35usd/tấn dài cho phế thượng hạng.

Giá xuất khẩu Bờ Đông Mỹ đến Thổ Nhĩ Kỳ tuần này tại mức giá 330usd/tấn CFR HMS 80:20, tăng 17.50usd so với mức giá xuất khẩu bán ngày 22/04 ở mức 312.50usd/tấn CFR và tăng 50usd/tấn từ giá bán cách đây 4 tuần là 280usd/tấn CFR.

Trong khi chào giá HRC và CRC tiếp tục tăng vọt, người mua đang gặp nhiều khó khăn để tím kiếm được nguồn cung giao ngay.

Phần lớn giá HRC và CRC đang cận hoặc vượt ngưỡng 600usd/tấn ngắn và 800usd/tấn ngắn, tương ứng, nhưng Platts duy trì định giá ngày trong bối cảnh không rõ nhà máy đang thật sự bán nguồn vật liệu này chủ yếu là do các đơn hàng đã chốt hoặc nguồn cung hạn chế. Platts định giá HRC và CRC ở mức 560-580usd/tấn ngắn và 740-760usd/tấn ngắn tương ứng. Cả hai giá này đều được chuẩn hóa theo giá cơ bản xuất xưởng Midwest (Indiana).

ArcelorMittal đã chốt giá cho sản lượng sản xuất và vận chuyển tháng 07 ở mức 610usd/tấn ngắn cho HRC và 800usd/tấn ngắn cho CRC và HDG, có hiệu lực trong đợt mở bán tháng 06 của nhà sản xuất này cũng như sản lượng sản xuất đầu quý ba. Trong khi đó AK Steel ngày hôm qua tăng giá tấm mỏng cạc-bon thêm 60usd/tấn ngắn, có hiệu lực tức thì với đơn hàng mới. AK đã là nhà máy thứ hai ở Mỹ thông báo tăng giá tấm mỏng trong tuần này, sau thông báo tăng giá hôm thứ Ba của ArcelorMittal.

Chào giá hiện cho HDG gần như không còn vì 4 nhà cung cấp đều đã đóng đơn đặt hàng. Chào giá duy nhất của nhà phân phối này là 780usd/tấn ngắn cơ bản từ một nhà cán lại.

Giá thép cây khu vực đông nam của Mỹ tăng vọt trong tuần này do nhà máy duy trì ổn định thông báo tăng giá bán. Platts nâng định giá ngày thép cây Mỹ cho khu vực này lên mức 530-545usd/tấn ngắn xuất xưởng hôm thứ Năm, tăng từ mức 500-515usd/tấn ngắn.

Thứ Năm tuần trước Nucor thông báo tăng giá giao dịch 35usd/tấn ngắn. Sau đó đến thứ Hai đầu tuần Steel Dynamics Inc., Commercial Metals Co. và Gerdau đã tăng giá theo trong phạm vi 40usd/tấn ngắn đến 45usd/tấn ngắn.

Chào giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ đến Mỹ tăng vọt do giá phế cao hơn, nhưng người mua vẫn tiếp tục chờ đợi và quan sát. Chào giá hiện nay đến Gulf trong phạm vi 545-550usd/tấn CFR (501-505usd/tấn ngắn CIF), nhưng không có giá bán được chốt trong tuần này. Platts hôm thứ Năm tăng định giá thép cây Mỹ lên mức 464-482usd/tấn CIF Houston, phản ánh mức chào giá cao hơn. Mức giá này tăng từ mức 455-464usd/tấn ngắn CIF.

Tại thị trường thép dầm Nucor và Steel Dynamics Inc. hôm thứ Tư thông báo tăng giá thép cây thương phẩm và thép dầm thêm 30usd/tấn ngắn. Platts hôm thứ Hai đã tăng định giá tháng cho thép góc 2x2x1/4-inch của Mỹ lên mức 588-603usd/tấn ngắn xuất xưởng, tăng từ mức 558-573usd/tấn ngắn.

Cũng có đồn đoán tăng giá thép dầm WF, nhưng vẫn còn một khoảng chênh lệch đáng kể giữa giá nội địa và giá nhập khẩu, một vài người cho rằng điều này sẽ gây khó khăn cho nhà máy để duy trì mức giá dầm WF cao hơn. Platts hôm thứ Hai duy trì định giá tháng của dầm WF trung bình của Mỹ tại mức 640-660usd/tấn ngắn xuất xưởng.

Trong sự trỗi dậy của một loạt các đơn khởi kiện bán phá giá của nhà máy tấm Mỹ lên 12 quốc gia, thì một làn sóng mới của chào giá nhập khẩu thép tấm cũng đang xuất hiện tại thị trường Mỹ từ Bulgaria, Đan Mạch, Malaysia, Ma-rốc và Ukraina.

Chào giá thép tấm nhập khẩu ở mức khoảng 570-600usd/tấn ngắn ở Houston so với giá trong nước ở mức 630-650usd/tấn ngắn xuất xưởng. Chào giá từ các quốc gia không bị khởi kiện bán phá giá được đẩy lên và bán giá lại ở mức tăng khoảng 60usd/tấn ngắn, theo nguồn tin thị trường cho biết. Thời gian giao hàng của thép tấm trong nước là vào tháng 06 và chào giá nhập khẩu hiện nay sẽ cập cảng vào tháng 07 hay tháng 08.

CIS

Tuần này hoạt động trên thị trường thép cuộn Biển Đen khá trầm lắng và nhà máy CIS đã cho thấy không có bất kỳ phản ứng nào với xu hướng giảm giá nghe thấy từ Trung Quốc.

Chào giá cho HRC được cho biết ở mức cao, tăng lên đến thậm chí là 530usd/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ từ Magnitogorsk Iron & Steel Works (MMK). Severstal cũng đang chào giá 530usd/tấn CFR và có vẻ như sẵn sàng nhận mức giá 520-525usd/tấn CFR. Sau mức tăng 27.50usd/tấn định giá ngày HRC của Platts lên mức 480-495usd/tấn FOB Biển Đen, cho thấy mức giá bình quân là 487.50usd/tấn FOB hôm thứ Năm. CRC được định giá ở mức 540usd/tấn FOB Biển Đen, tăng 35usd/tấn trong ngày.

Bất chấp sự quay đầu mạnh mẽ của giá phôi thanh, phôi tấm cho thấy đang tiếp tục chống cự lại xu hướng này do kỳ nghỉ lễ dài ở CIS cũng như nguồn cung phôi tấm thặt chặt trong thị trường. Một thương nhân châu Âu nghe nói một đơn hàng bán ở mức 400usd/tấn FOB Biển Đen nhưng không có người mua nào xác nhận thông tin này. Ngược lại họ cho biết rằng nếu phải mua phôi tấm vào lúc này mức giá tối đa sẽ trả từ phía người mua là 380-385usd/tấn FOB.

Sau 11 tuần tăng liên tục và phục hồi khoảng 180usd/tấn, phôi thanh CIS đã giảm nhẹ trong tuần này sau đợt điều chỉnh giá giảm đáng kể từ Trung Quốc. Giá chào mới đầu tiên đến từ một nhà máy Ukraina ở mức 425usd/tấn FOB Biển Đen.

Sau điều chỉnh giảm 5usd/tấn, định giá ngày phôi thanh CIS ở mức 417.5usd/tấn FOB Biển Đen hôm thứ Tư.

Mặc dù niềm tin thị trường rõ ràng đang hướng về xu hướng giảm các nguồn tin không chắc về mức giá khả thi do đà giảm mạnh của giá Trung Quốc cũng như tính biến động gần đây đang che mờ triển vọng xu hướng giá cả. Trong khi chào giá Trung Quốc đang giao động trong phạm vi 360-375usd/tấn FOB Biển Đen trong vài ngày qua, khoảng cách với giá chào của CIS đã nới rộng ra đến mức không duy trì ổn định là 50-70usd/tấn.

Vì vậy xu hướng điều chỉnh giá xuống của giá chào CIS là rất có thể trong ngắn hạn, trừ khi giá Trung Quốc phục hồi lại. Một thương nhân tính toán dựa trên chào giá hiện tại của Trung Quốc thì chào giá thực tế của CIS nên trong khoảng 380u8sd/tấn FOB Biển Đen tuy nhiên phạm vi giá CIS thực tế được biết hiện là 410-430usd/tấn FOB Biển Đen.

EU

Các nhà sản xuất tấm dày châu Âu tiếp tục tăng giá trong tuần này, buộc người mua không còn sự lựa chọn nào ngoài việc phải chấp nhận do mức tích trữ hàng của đại lý và người dùng cuối ngày một thấp hơn.

Giá cho tấm thương mại S235 ở Đức là 550euro/tấn cơ bản xuất xưởng thời gian giao hàng kéo dài đến tháng 08. Chào giá S235 ở Italy là  510euro/tấn cơ bản xuất xưởng trong tuần này vận chuyển tháng 06 hoặc tháng 07.

Sau xu hướng giá tăng, Platts đã tăng định giá ngày lên mức 500-510euro/tấn xuất xưởng Ruhr hôm thứ Năm, tăng 5euro/tấn từ thứ Tư. Định giá nhập khẩu ngày duy trì ổn định tại mức 435-445euro/tấn CIF Antwerp.

Nhà máy ở Bắc và Nam Âu nghe nói đang chào giá ở mức khoảng 420euro/tấn và có một tin đồn ngày một mạnh hơn nói rằng một nhà cung cấp lớn có thể đang thúc đẩu mức giá chào của mình lên đến 470euro/tấn. Nguồn cung HRC và CRC giới hạn cũng được nghe nói ở khu vực Bắc Âu, với các nhà máy đang thu hồi lại các chào giá ở mức thấp hơn. Nhập khẩu tiếp tục khan hiếm và thiếu cạnh tranh, với chào giá từ Nga và Iran trong khoảng 460-470euro/tấn.

Đối với CRC nhà máy Italy đang chào giá 520euro/tấn cơ bản xuất xưởng với Ilva có thể vận chuyển nhanh nhất là vào tháng 10 trong khi nhà máy khác có thể vận chuyển trong tháng 07/08, và HDG khoảng  520-530euro/tấn cơ bản xuất xưởng vận chuyển tháng 07.

Hầu hết nhà máy châu Âu bắt đầu tuần này với chào giá mới cho thép cây. Tuy nhiên, người mua lớn đang trong tâm lý chờ đợi.

Nhà máy Italy đã đưa ra giá chào là 200euro/tấn cơ bản xuất xưởng, tăng 20euro từ mức trước đó, sau khi đã tăng giá chào xuất khẩu lên mức khoảng 440-450euro/tấn FOB. Một vài nhà máy hàng đầu ở Tây Ban Nha cũng tăng giá chào vào đầu tuần này, lên mức khoảng 255euro/tấn cơ bản vận chuyển, trong khi nhả máy Đức, lần đầu tiên tăng giá chào sau 4 tuần, đang chào mức giá 270-290euro/tấn vận chuyển kể từ cuối tuần trước.

Tuần trước các nhà máy và nhà cán lại ở Pháp cũng đã tăng giá chào lên mức 250-260euro/tấn vận chuyển với một số người mua dự đoán về mức giá 280-290euro/tấn vận chuyển trong tuần này, nhưng mức giá này đã duy trì ở 250-260euro/tấn vận chuyển, được xem là quá cao bởi hầu hết người mua.Định giá thép cây của EU tăng thêm 10euro/tấn hôm thứ Ba lên mức 440-470euro/tấn thật tế xuất xưởng.

Thị trường thép hình châu Âu tuần qua chứng kiến ​​tuần tăng mạnh nhất kể từ tháng 12/2012, với các thành phần tham gia thị trường đang dự đoán một cú hích về giá đáng kể nữa trong tuần này.

Trong suốt tuần trước, khi đà tăng giá được nhìn thấy ở khắp nơi trên thế giới, thị trường này đã tăng lên từ từ, nhưng hiện giờ dường như giá thép hình đã gia nhập hàng ngũ của thị trường thép cây đang bùng nổ, với giá tăng 20€/tấn trong tuần.

Có những dự đoán từ đầu tuần này về giá chào bán mới lên đến 520€/tấn thật tế đã giao. Một nhà sản xuất cho biết sản phẩm này có thể đạt đến 550€/tấn cho sản phẩm mới. Thép cây thương phẩm cũng đã tăng lên khoảng 65€/tấn cơ bản vận chuyển, từ  40€/tấn cơ bản vận chuyển vào đầu tháng. Platts định giá thép hình châu Âu loại 1 ở mức 490-500€/tấn vận chuyển hôm thứ Sáu, tăng 20€/ tấn trong tuần.

Thổ Nhĩ Kỳ

Các nhà sản xuất CRC Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục chào giá cao hơn đến thị trường nội địa tuần này, song song với xu hướng đi lên của giá HRC. Tuy nhiên do người dùng cuối hiện không hỗ trợ mức tăng này, một thành phần thị trường đang dự đoán sẽ có điều chỉnh giá trong vài tuần tới, nếu đà tăng của giá nguyên liệu thô không tiếp diễn cũng như chào giá nhập khẩu mới sẽ không cao hơn.

Ít nhất một trong những nhà máy lớn của Thổ Nhĩ Kỳ ở Gebze, gần Istanbul, đã bắt đầu chào giá ở mức 660usd/tấn xuất xưởng cho CRC hôm thứ Năm, thanh toán tiền mặt. Các nhà cung cấp khác cũng tăng giá lên và điều này đã đưa phạm vi giá CRC tăng lên 650-680usd/tấn xuất xưởng trong thị trường nội địa hôm thứ Năm, trong khi giá bán phổ biến của nhà tích trữ đạt 670-690usd/tấn, tùy thuộc khối lượng và hình thức thanh toán.

Chào giá HRC của nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đến thị trường trong nước cũng tiếp tục tăng lên và đạt mức 550-570usd/tấn xuất xưởng giao tháng 07 trong tuần này. Điều này khiến cho giá bán phổ biến của nhà tích trữ ở thị trường nội địa tăng lên trong phạm vi 570-590usd/tấn cho HRC hôm thứ Tư.

Do giá HRC trong nước tiếp tục tăng trong tuần này, trong bối cảnh phế và phôi tấm nhập khẩu mạnh mẽ hơn cộng với giá HRC nhập khẩu cao hơn, giá niêm yết HDG của nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cũng mạnh mẽ hơn, các nguồn tin công nghiệp cho biết.

Một trong những nhà sản xuất hàng đầu Thổ Nhĩ Kỳ đã bắt đầu đòi hỏi mức giá 670usd/tấn cho HDG dày 1mm và 750usd/tấn cho HDG dày 0.5mm. Chào giá của những nhà sản xuất cuộn mạ hàng đầu khác cho HDG dày 0.5mm cũng mạnh mã và nằm trong phạm vi 720-790usd/tấn xuất xưởng hôm thứ Tư, trong khi chào giá nội địa của PPGI 9002 0.5mm trong phạm vi 820-880usd/tấn xuất xưởng. Chào giá xuất khẩu của nhà sản xuất ở mức thấp hơn 30usd/tấn so với giá niêm yết trong nước trong bối cảnh nhu cầu tiêu thụ trì trệ.

Chào giá nhập khẩu cao hơn tiếp tục hỗ trợ niềm tin giá tăng trong thị trường. Một nhà sản xuất lớn của Italy đã bắt đầu chào giá ở mức 610-620usd/tấn CIF cho HDG dày 2-4mm giao tháng 07 trong tuần trước, như đã đưa tin. Những nhà cung cấp cuộn mạ nước ngoài khác của Thổ Nhĩ Kỳ, gồm Trung Quốc, dự kiến sẽ thông báo mức giá chào mới trong vài ngày tới.

Giá thép cây nội địa Thổ Nhĩ Kỳ đã đạt mức 520usd/tấn, với một nhà sản xuất lớn, Icdas, đã đưa mức giá tăng mới hôm thứ Năm phần lơn là do đồng lira giảm mạnh giá trị.

Icdas thông báo tiếp tục tăng giá bán thép cây đường kính 12-32mm thêm 60TRY (20.5usd)/tấn lên mức 1.780TRY/tấn xuất xưởng Istanbul và 1.760TRY/tấn xuất xưởng Biga, Canakkale – tương đương 519usd/tấn và 512usd/tấn tương ứng không bao gồm VAT 18%. Giá của công ty này cho thép cây đường kính 10mm tăng lên mức 1.790TRY (523usd)/tấn xuất xưởng, trong khi thép cây đường kính 8mm hiện ở mức 1.710TRY (526usd)/tấn xuất xưởng Istanbul.

Icdas cũng tăng giá cuộn trơn đường kính 7-8.5mm một khoảng tương tự lên mức 1.840-1.870TRY/tấn xuất xưởng, bao gồm VAT 18%.

Thị trường xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ ổn định tương đối mạnh mẽ hôm thứ Tư do các nhà máy đạt đạt được thành công hơn so với ước tính ban đầu về mức chào giá cao hơn.

Một số nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ mục tiêu 535usd/tấn CFR Dubai trọng lượng lý thuyết – khoảng 530usd/tấn FOB với dung sai trong lượng là 3% và phí vận chuyển 18usd/tấn. Một nhà sản xuất thép ở Marmara cho biết đang cố gắng bán ở mức giá 525usd/tấn FOB, mặc dù cũng có các giá chào cạnh hơn gần mức 512usd/tấn FOB từ các nhà sản xuất thép EAF. Một người mua Oman cho biết đã nghe được một đơn hàng tuần trước ở mức 515usd/tấn CFR Dubai trong lượng lý thuyết, tương đương 509usd/tấn FOB với dung sai trong lượng là 3% và phí vận chuyển 20usd/tấn. Một thương nhân ở London nói rằng nhà máy đang mục tiêu 520usd/tấn FOB, nhưng mức này là không chấp nhận được đối với người mua.

Nhà sản xuất thép dài tích lợp lớn nhất của Thổ Nhĩ Kỳ, Kardemir đã tái mởi bán đơn hàng phôi thanh, thép cây, thép hình và thép góc đến thị trường trong nước với mức giá cao hơn đáng kể, trong bối cảnh chào giá phế và phôi thanh nhập khẩu mạnh mẽ cũng như niềm tin lạc quan cho rằng giá sẽ còn tiếp tục đi lên.

Giá bán phôi thanh tiêu chuẩn của Kardemir chốt ở mức 445-450usd/tấn xuất xưởng hôm thứ Ba, tăng 20usd/tấn so với mức giá niêm yết ngày 21/04. Công ty này cũng tăng giá bán thép cây hơn nữa – giá bán mới của nhà máy cho thanh tròn trơn là 1.440TRY (514usd)/tấn xuất xưởng, tăng 53TRY (19usd)/tấn từ mức giá niêm yết trước đó. Giá thép cây của công ty cũng tăng tương tự lên mức 1.423TRY (508usd)/tấn xuất xưởng.

Kardemir tăng giá théo hình tính bằng đồng euro thêm 20euro/tấn hôm thứ Ba. Giá IPE-IPN-UPN 160mm tăng lên mức 455euro/tấn xuất xưởng, trong khi giá thép hình IPE-IPN-UPN 180-300mm tăng lên mức 460euro/tấn. Thép hình IPE-IPN-UPN 320-550mm của công ty này tăng tương tự lên mức 525euro/tấn, trong khi giá cho HEA-HEBs 120-200mm, 220-260mm và 280-300mm cũng tăng thêm 20euro/tấn: lần lượt ở mức 465euro/tấn, 525euro/tấn và 545euro/tấn.

Giá thép góc của Kardemir cũng tăng: thêm 20euro/tấn cho 150x150mm lên mức 495-510euro/tấn; cho 180x180mm lên mức 530euro/tấn và cho 200x16-24mm lên mức 530-550euro/tấn. Giá của Kardemir không bao gồm VAT.

Công ty cũng tăng giá gang thỏi đúc thêm 20usd/tấn lên mức 334-354usd/tấn xuất xưởng, trong khi giang thỏi làm thép tăng tương tự lên mức 300-330usd/tấn xuất xưởng. 

Ấn Độ

Sự phục hồi của giá thép thế giới đang khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất thép của Ấn Độ cố gắng nâng giá HRC lên 1.000 Rupees/tấn (15 USD/tấn), mặc dù sức mua vẫn còn yếu. Platts định giá HRC IS 2062 loại A/B dày 3mm hôm thứ Tư ở mức 29.500-30.500 Rupees/tấn (443-458 USD/tấn) xuất xưởng, tăng 1.000 Rupees/tấn so với tuần trước.

Quyết định tăng giá được hỗ trợ bởi doanh số tháng 4 tăng nhẹ, khi HRC nội địa lấp hết khoảng trống được tạo ra bởi thép nhập khẩu sụt giảm. Người mua sợ phải nhập HRC kể từ khi một cuộc điều tra chống bán phá mở ra hồi tháng 4 nhằm xem xét thuế hồi tố tạm thời. Tuy nhiên, một người tiêu dùng trực tiếp ở Delhi than phiền rằng không có lý do gì để các nhà sản xuất tăng giá bởi vì mức tiêu thụ thực tế không cải thiện.

Đài Loan

Feng Hsin Iron & Steel đã tăng giá thép cây trong nước lên 500 Đài tệ/tấn (15,5 USD/tấn) và giá mua phế lên 300 Đài tệ/tấn cho tuần này, nhằm phản ánh doanh số gia tăng. Với hai sự điều chỉnh này, giá niêm yết của nhà máy cho thép cây đường kính chuẩn 13mm lên 15.300 Đài tệ/tấn xuất xưởng Taichung. Đồng thời, giá mua phế HMS 1&2 (80:20) của nhà máy là 8.300 Đài tệ/tấn.