Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin dự báo thị trường TQ ngày 28/10/2021

Giá thép Trung Quốc giảm mạnh sau khi các cơ quan quản lý nhắm mục tiêu trở lại vào giá than. Cơ quan kế hoạch kinh tế quốc gia của Trung Quốc, NDRC đã đưa ra mức giới hạn đối với giá than nhiệt và ra lệnh đóng cửa các kho chứa than không có giấy phép có thể được sử dụng để tích trữ.

Điều này đã làm giảm chi phí than cốc luyện kim và tạo dư địa cho thép xuống thấp hơn. Hợp đồng than đá luyện cốc và than cốc đạt mức giảm giới hạn tối đa hàng ngày khiến tâm lý thị trường thép suy yếu vì chi phí nguyên liệu thô giảm có thể làm giảm giá thép, vốn đang trên đà giảm gần đây do nhu cầu thép chậm lại trước mùa đông.

Khối lượng giao dịch thép cây ở các thành phố lớn đã giảm 60,000 tấn xuống 140,000 tấn vào ngày hôm qua.

Tại thị trường giao ngay, giá thép cây Thượng Hải giảm 100 NDT/tấn xuống còn 5,200 NDT/tấn. Các nhà giao dịch cắt giảm chào hàng sau khi giá thép cây giao sau tháng 1 giảm 4.28% xuống còn 4,655 NDT/tấn. Giao dịch giao ngay cũng chậm lại. Tám nhà máy Trung Quốc đã giảm giá thép cây xuất xưởng từ 30-100 NDT/tấn.

HRC giao ngay tại Thượng Hải giảm 140 NDT/tấn (22 USD/tấn) xuống còn 5,400 NDT/tấn xuất xưởng. HRC kỳ hạn tháng 1 giảm 3.6% xuống còn 5,032 NDT/tấn. Một số thương nhân nhỏ đã mua thép cuộn sau khi giảm giá, nhưng hầu hết vẫn thận trọng.

Trên thị trường xuất khẩu, một số nhà máy Trung Quốc giữ giá thép cây ở mức 860 USD/tấn fob trọng lượng lý thuyết. Nhưng với giá thép cây nội địa của Trung Quốc giảm xuống tương đương 806-825 USD/tấn, các nhà máy có khả năng cắt giảm lượng chào hàng xuất khẩu để phù hợp với mức thị trường trong nước.

Đối với HRC, các máy lớn của Trung Quốc ngưng chào xuất khẩu, nhưng mức khả thi từ cả thương nhân và người mua đường biển đã giảm xuống khoảng 850-860 USD/tấn fob Trung Quốc đối với HRC SS400 sau khi giá nội địa Trung Quốc giảm.

Các mức này vẫn cao hơn giá nội địa ở một số thành phố của Trung Quốc. Giá HRC nội địa của Trung Quốc ở mức tương đương 850-860 USD/tấn sau khi giảm mạnh và cơ hội xuất khẩu HRC của Trung Quốc có thể sớm mở ra nếu giá tiếp tục giảm. Một số thương nhân đề nghị giao hàng kỳ hạn hơn cho tháng 3 và tháng 4 hoặc thậm chí tháng 6/2022 với mức giá thấp mạnh mẽ, nhưng không người mua nào muốn xem xét các loại hàng hóa do rủi ro bao gồm thay đổi thuế.

Người mua Việt Nam cho biết họ chỉ có thể chấp nhận ở mức cao 870-880 USD/tấn cfr, tương đương khoảng 840-850 USD/tấn fob Trung Quốc. Một số thương nhân chào bán thép băng Trung Quốc với giá 900 USD/tấn cfr Việt Nam nhưng không nhận được đơn đặt hàng.

Triển vọng giá thép những tháng cuối năm sẽ chịu ảnh hưởng từ các yếu tố sau:

Yếu tố hỗ trợ:

_Chính sách trung hòa carbon tăng cường, làm giảm sản xuất thép.

_Chính sách cắt giảm sản xuất mùa đông, làm giảm nguồn cung thép.

_Thiếu điện làm giảm sản xuất thép.

_Giá than đá duy trì ở mức cao, hỗ trợ giá thép.

_Nhu cầu phục hồi dần tại các thị trường Châu Á sau dịch.

_ Chi phí năng lượng tăng với chính sách cải tiến quy định giá điện mới của Chính phủ.

Yếu tố cản trở:

_Các số liệu kinh tế yếu.

_ Cắt giảm sản xuất thép về lâu dài kéo giá nguyên liệu thô giảm, tác động lại giá thép.

_ Bong bóng bất động sản từ vụ Evergrande, làm giảm đầu tư vào lĩnh vực xây dựng cuối năm.

_ Cú đấm hạ nhiệt giá hàng hóa của Chính phủ.

_Thiếu điện làm giảm sản xuất công nghiệp, gây áp lực lên tiêu thụ thép dẹt.

_Áp lực cạnh tranh gay gắt từ các đối thủ trên thị trường xuất khẩu.

_Nhu cầu gặp áp lực vào mùa đông.

Như vậy, yếu tố hỗ trợ chính cho giá tới cuối năm là giảm sản xuất, theo các chính sách môi trường, thiếu điện và cắt giảm mùa đông, dù một số khu vực tăng công suất sau khi hoàn thành mục tiêu. Với quy định về giá điện mới của Chính phủ thời gian tới, Bắc Kinh yêu cầu tất cả các doanh nghiệp trong nước và người sử dụng công nghiệp phải mua điện từ các sàn giao dịch với giá cao hơn điện từ Chính phủ, làm gia tăng chi phí sản xuất thép.

Tuy nhiên, nhu cầu tiêu thụ sẽ không mạnh về cuối năm do yếu tố mùa vụ, các chính sách quản lý thị trường bất động sản sau vụ Evergande, các chỉ số kinh tế giảm. Việc thiếu điện ảnh hưởng tới các hoạt động sản xuất, làm giảm nhu cầu thép.

Chính phủ sẽ siết chặt các hoạt động đầu cơ, gây ra hiện tượng giá quá nóng trên thị trường than cốc, than nhiệt như các động thái mới đây, điều này làm giảm tâm lý đầu tư và kéo giá cả giảm.

Do đó, dự kiến giá thép nội địa tăng giảm đan xen, với ngưỡng trần là 5,800 NDT/tấn và giá sàn 5,000 NDT/tấn.

Trên thị trường xuất khẩu, giá xuất khẩu vẫn sẽ duy trì ở mức cao hơn các đối thủ do phân bổ xuất khẩu hạn chế. Tuy nhiên, giá quá cao khó thu hút người mua nên sẽ còn giảm về cuối năm để kích cầu, nhưng biến động đan xen. Mặc dù Việt Nam đã mở cửa trở lại từ ngày 01/10 nhưng vẫn sẽ có những biện pháp hạn chế để ngăn ngừa covid-19, nên nhu cầu không có sự đột biến, cộng với cạnh tranh giá thấp hơn từ các đối thủ Ấn Độ, Nga.

Do đó, giá xuất khẩu HRC SAE Trung Quốc dự kiến sẽ biến động tăng giảm về cuối năm, dao động trong khoảng 950-980 USD/tấn cfr Việt Nam vào tháng 12.