THỊ TRƯỜNG THÉP DẸT
- Cuộc đình công của nhân viên hải quan đang diễn ra tại Brazil đã làm trầm trọng thêm thị trường nhập khẩu thép cuộn cán nóng (HRC) vốn đã ảm đạm và gây áp lực lên giá trong tuần qua.
Được biết không có giao dịch nhập khẩu nào được chốt vào tuần trước vì thị trường đang trong trạng thái chờ đợi và xem xét, do lượng hàng tồn kho tăng tại cảng Sao Francisco do Sul, sự bất ổn do thuế quan, khối lượng hạn ngạch và các cuộc điều tra chống bán phá giá.
Giá HRC đã giảm xuống còn 500-520 đô la/tấn cfr Brazil hôm thứ Sáu, từ mức 510-520 đô la/tấn — tuần giảm thứ ba liên tiếp — vì các thương nhân Trung Quốc đang đưa ra mức chiết khấu để thúc đẩy doanh số.
Thị trường kỳ vọng nhu cầu nội địa từ Brazil sẽ bắt đầu phục hồi trong những tuần tới vì sản lượng ô tô thường tăng vào nửa cuối năm, đặc biệt là vào tháng 11 và tháng 12. Người mua dự kiến sẽ quốc hữu hóa lượng thép tồn kho của họ trước khi có phán quyết điều tra chống bán phá giá dự kiến vào ngày 4 tháng 11.
- Giá thép tấm Nam Âu lại giảm trong tuần trước, tiến gần hơn đến mức giá vốn của các nhà máy cán lại, vì các nhà sản xuất đang gặp khó khăn để nhận được đơn đặt hàng vào mùa hè. Hoạt động nhập khẩu vẫn chậm lại trong thời điểm giá giảm trên khắp lục địa.
Giá thép tấm của Ý đã giảm 5 euro/tấn xuống còn 605 euro/tấn xuất xưởng hôm thứ Sáu cho S235, trong khi đối tác Tây Bắc Âu vẫn giữ nguyên ở mức 670 euro/tấn xuất xưởng. Giá tấm dày S235 ở mức 570 eur/tấn cfr CFR Ý.
- Giá thép cuộn cán nóng Thổ Nhĩ Kỳ trong nước tiếp tục giảm thêm nữa trong bảy ngày qua khi các nhà máy gặp khó khăn trong việc nhận được đơn đặt hàng, vì người mua vẫn đứng ngoài cuộc để do dự thương lượng với các nhà máy.
Giá HRC trong nước của Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm 5 đô la/tấn xuống còn 545 đô la/tấn xuất xưởng, trong khi giá xuất khẩu giảm cùng mức xuống còn 530 đô la/tấn fob. Ngược lại, giá nhập khẩu đối với các loại S235 vẫn ổn định ở mức 470 đô la/tấn cfr.
Giá HRC giảm 5 đô la/tấn xuống còn 455 đô la/tấn fob Biển Đen.
Trên thị trường xuất khẩu, giá của Thổ Nhĩ Kỳ đã điều chỉnh giảm nhẹ khi các nhà sản xuất đưa ra mức giá 530-550 đô la/tấn fob tới EU cho lô hàng giao tháng 8. Các chào giá cạnh tranh từ Châu Á - Thái Bình Dương và giá giảm tại Châu Âu có thể đã khiến các nhà máy thép Thổ Nhĩ Kỳ hạ mức giá của họ nhằm duy trì một số thị phần trong khối.
Các nhà sản xuất nói chung đã gặp khó khăn trong việc có đủ đơn hàng để sản xuất vào tháng 7 và nếu bị sức ép họ sẽ phải giảm giá đáng kể. Hầu hết các nhà cung cấp hiện đang hướng tới sản lượng tháng 8 nhưng người mua cho biết vẫn còn quá sớm để bắt đầu đàm phán về các lô hàng đến vào cuối mùa hè.
Tuần trước, Ngân hàng Trung ương Thổ Nhĩ Kỳ đã quyết định hoãn bất kỳ đợt cắt giảm lãi suất nào có thể diễn ra sang tháng tới, đúng như giới thị trường dự đoán sau khi xung đột ở Trung Đông leo thang.
Nhu cầu đối với các sản phẩm hạ nguồn vẫn rất yếu, điều này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến nhu cầu HRC từ các ngành sản xuất ống thép và lĩnh vực cán lại. Dự báo giá HRC Thổ Nhĩ Kỳ sẽ vẫn chịu áp lực giảm.
- Giá thép cuộn cán nguội (CRC) và thép mạ kẽm nhúng nóng (HDG) trong nước của Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm trong tuần qua, vì một số nhà máy cán lại không hoàn thành sản lượng vào cuối tháng 7 và đã hạ giá để kích cầu.
Giá xuất khẩu HDG hàng tuần tại Thổ Nhĩ Kỳ không đổi ở mức 710 đô la/tấn fob, trong khi giá xuất xưởng HDG trong nước là 750 đô la/tấn. Giá xuất khẩu CRC vẫn ổn định ở mức 610 đô la/tấn fob, trong khi giá CRC trong nước giảm 10 đô la/tấn xuống còn 650 đô la/tấn xuất xưởng.
Doanh số bán hàng sang EU được ghi nhận mặc dù không chắc chắn về hạn ngạch bảo hộ, vì nhiều người kỳ vọng hạn ngạch sẽ hết nhanh chóng vào đầu quý mới. Giá chào tới EU cao hơn so với các điểm đến ngoài EU do những rủi ro liên quan. Giao dịch được chốt ở mức 690–700 đô la/tấn cfr Nam Âu. Người mua cho biết giá chào của Thổ Nhĩ Kỳ nằm trong số những giá chào giá cạnh tranh nhất và thời gian giao hàng ngắn hơn nên người bán vẫn giữ vững lập trường và không hạ giá thêm nữa.
Ngược lại, xuất khẩu HDG vẫn chậm. Thuế chống bán phá giá của Thổ Nhĩ Kỳ đối với HDG có xuất xứ từ EU đã khiến các chào giá của nước này kém cạnh tranh hơn. Việt Nam, đối thủ cạnh tranh chính của Thổ Nhĩ Kỳ trên thị trường HDG EU, hiện đang rời khỏi thị trường, khi các nhà máy đã nhận đủ đơn hàng để sản xuất vào tháng 7. Sản lượng tháng 8 có nguy cơ được thông quan sau ngày 31 tháng 12, khi Cơ chế điều chỉnh biên giới các-bon (CBAM) của EU có hiệu lực, có khả năng dẫn đến thuế suất cao và biến động giá. Mặc dù vậy, doanh số bán HDG của Thổ Nhĩ Kỳ vẫn thấp vì giá tại EU giảm, khiến thép trong nước hấp dẫn hơn đối với người mua tại đây.
Giá trong nước của HDG Z100 0,50mm được nghe ở mức 750–770 đô la/tấn xuất xưởng, giảm 10–15 đô la/tấn so với tuần trước.
Giá chào cho thép mạ kẽm (PPGI) RAL9002 20+5 micron Z100 0,5mm vào khoảng 880–890 đô la/tấn xuất xưởng, thấp hơn khoảng 10 đô la/tấn so với tuần trước đó.
PPGI 15+5 micron loại thương mại được chào hàng ở mức 830–840 đô la/tấn xuất xưởng.
Các nhà sản xuất đã hy vọng rằng việc cắt giảm lãi suất có thể kích thích nhu cầu thép, nhưng với việc lãi suất được giữ nguyên, họ vẫn thận trọng và thị trường đang chuẩn bị cho nhu cầu yếu tiếp tục kéo dài đến tháng 7.
THỊ TRƯỜNG THÉP DÀI
-Nhu cầu cho thép cây Thổ Nhĩ Kỳ vẫn ở mức thấp, nhưng các nhà máy không muốn giảm giá quá mạnh để theo đuổi doanh số vì họ không muốn gây ra sự sụt giảm đáng kể trong kỳ vọng giá của người mua. Giá thép cây trong nước của Thổ Nhĩ Kỳ ổn định ở mức 537,50 đô la/tấn chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng.
Tâm lý trên thị trường xuất khẩu cũng không khá hơn, với việc bán hàng cho Israel và Yemen dường như ngày càng khó khăn hơn do xung đột leo thang giữa Israel và Iran trong vài ngày qua.
Nhưng xét đến sự mạnh lên mới đây của đồng euro so với đồng đô la Mỹ, các nhà máy có thể chờ đợi sự trở lại của người mua EU, có thể là vào cuối tháng 7, để thông quan cho quý IV. Hiện tại, giá chào xuất khẩu không đổi ở mức 540-550 đô la/tấn fob và giá xuất khẩu hàng ngày ổn định ở mức 542,50 đô la/tấn fob Thổ Nhĩ Kỳ.
THỊ TRƯỜNG PHẾ
- Giá nhập khẩu phế sắt của Thổ Nhĩ Kỳ trong phân khúc chặng đường biển xa đã tăng trở lại vào hôm thứ Sáu khi các nhà máy vẫn tiếp tục mua vào để đáp ứng nhu cầu giao thép cho tháng 7. Người bán đang ra tín hiệu rằng họ sẵn sàng thương lượng, nhưng trong một giới hạn nhất định và thái độ của người mua dường như cũng sẵn sàng thỏa hiệp về giá hơn sau một thời gian ngừng mua.
Giá phế sắt thép HMS 1/2 80:20 tăng 1 đô la/tấn lên 342 đô la/tấn cfr Thổ Nhĩ Kỳ vào ngày 20 tháng 6.
Ở tuyến đường biển ngắn, giá phế liệu sắt vẫn ở mức 320 đô la/tấn cfr Thổ Nhĩ Kỳ hôm thứ Sáu.
Các nhà máy của Thổ Nhĩ Kỳ vẫn đang vật lộn với đầu ra và cũng cho người mua của họ biết rằng họ sẵn sàng thương lượng giảm cho đơn hàng khối lượng lớn. Xung đột Israel-Iran đang phủ bóng đen lên tâm lý vốn đã bất ổn của đất nước, làm gián đoạn triển vọng và làm tăng thêm sự bất ổn cũng như tính biến động trên thị trường. Tuy nhiên, triển vọng không hoàn toàn ảm đạm, khi các nhà máy vẫn cần phế liệu hoặc phải giảm sản lượng đáng kể vào tháng 8. Dự báo giá phế sẽ duy trì quanh mức hiện nay hoặc tăng nhẹ.
-Các nhà máy Việt Nam phần lớn vẫn đang đứng ngoài thị trường, do lo ngại về doanh số thép hạ nguồn ảm đạm đã làm giảm tâm lý mua hàng.
Phế HMS 1/2 80:20 đường biển CFR Việt Nam không thay đổi ở mức 342 USD/tấn.
Phế rời có xuất xứ từ Mỹ vẫn ổn định ở mức 345 USD/tấn CFR cho HMS 1/2 80:20, trong khi phế rời từ Úc được nghe nói có sẵn ở mức 335 USD/tấn CFR. Chào giá phế rời HMS 1/2 80:20 có nguồn gốc Singapore cũng ở mức khoảng 335 USD/tấn CFR.
-Thị trường phế xuất khẩu của Nhật Bản duy trì ổn định trong tuần qua, với các nhà xuất khẩu giữ vững mức chào giá trong khi người mua nước ngoài hạ nhẹ mục tiêu giá.
Phế H2 FOB Nhật Bản không đổi ở mức 41.100 yên/tấn (282 USD/tấn) hôm thứ Sáu. Giá hàng tuần cho HS FOB Nhật Bản ổn định ở mức 45.200 yên/tấn (311 USD/tấn).
Chỉ một vài nhà máy có nhu cầu nhập kho vẫn hoạt động trên thị trường đường biển, do các sản phẩm thép bán thành phẩm cạnh tranh tiếp tục gây áp lực lên giá phế. Một số nhà giao dịch Nhật Bản hy vọng rằng đồng yên yếu hơn — hiện ở mức hơn 145 yên đổi một đô la Mỹ — sẽ hỗ trợ các cuộc đàm phán xuất khẩu vào tuần này (23-27/6).
Các nhà máy Việt Nam đã giảm giá mục tiêu cho H2 xuống 315-320 USD/tấn CFR trong tuần qua, và một giao dịch đã được chốt ở mức khoảng 320 USD/tấn CFR. Nhưng được biết mức giá này bao gồm một khoản phụ phí chất lượng và không đại diện cho giá thị trường thực tế.
-Thị trường phế nội địa Nhật Bản ít hoặc không có biến động trong tuần qua, do nhu cầu xếp hàng liên tục, mặc dù khối lượng xuất khẩu dự kiến sẽ giảm trong tháng tới. Tokyo Steel duy trì giá H2 ở mức 41.000 yên/tấn tại nhà máy Tahara và 40.500 yên/tấn tại nhà máy Utsunomiya.
Giá thu gom tại bến cảng Tokyo Bay không thay đổi trong hơn một tháng. Phế H2 ở mức 40.000-41.000 yên/tấn FAS, phế HS ở mức 44.500-45.500 yên/tấn FAS, và phế shindachi ở mức 44.000-45.000 yên/tấn FAS.
Với lượng nguyên liệu còn dồi dào từ các lần mua trước và dự đoán nhu cầu chậm lại trong mùa mưa, hầu hết các nhà máy không vội mua thêm. Thị trường thép đang yếu sẽ khiến các nhà máy trở nên thận trọng hơn trong việc tìm mua nguyên liệu thô. Dự báo giá phế tại hai thị trường Việt Nam và Nhật Bản sẽ duy trì ở mức hiện tại hoặc giảm nhẹ.