THỊ TRƯỜNG THÉP DÀI
Người mua thép cây tại Mỹ đã chấp nhận mức tăng giá từ các nhà máy trong tuần trước đó, giữ giá nội địa ở mức cao nhất kể từ tháng 3 năm 2024. Mặc dù nhu cầu vẫn yếu, nhưng mức thuế thép mới 50% của Mỹ, được áp dụng từ ngày 4 tháng 6, khiến người mua không phản ứng mạnh với việc tăng giá.
Giá thép cây giao tại nhà máy ở khu vực miền Nam và Trung Tây vẫn duy trì ở mức lần lượt 830–840 USD/tấn ngắn (st) và 840–850 USD/st khi một nhà sản xuất thép lớn khác đã tăng giá thêm 60 USD/st vào đầu tuần trước.
Các nhà nhập khẩu cũng tăng giá chào ngay sau khi thuế được áp dụng, thu hẹp khoảng cách giá với hàng nội địa.
Giá thép cây đã tăng lên 840–850 USD/st ddp Houston tuần trước, từ mức 720–740 USD/st của tuần trước đó — mức giá dao động này đã duy trì từ giữa năm 2024.
Dù lực cầu yếu nhưng mức thuế thép mới 50% của Mỹ, được áp dụng từ ngày 4 tháng 6, người mua không phản ứng mạnh với việc tăng giá nữa. Do đó, giá thép dài tại Mỹ được hỗ trợ phần nào, nhưng mức tăng liệu có được duy trì hay sẽ lại điều chỉnh do sức mua yếu thì vẫn chưa chắc chắn.
THỊ TRƯỜNG THÉP DẸT
-Giá thép HRC tại Thổ Nhĩ Kỳ giảm trong tuần qua khi người mua không muốn tích trữ hàng do sự bất ổn của thị trường. Đầu tuần trước, nhiều người ở Thổ Nhĩ Kỳ kỳ vọng lãi suất sẽ giảm ngay trong tháng này, nhưng do căng thẳng Trung Đông leo thang, khả năng cắt giảm có thể bị trì hoãn.
Giá HRC nội địa Thổ Nhĩ Kỳ giảm 5 USD/tấn xuống còn 550 USD/tấn giao tại nhà máy, trong khi giá xuất khẩu giữ nguyên ở mức 535 USD/tấn FOB. Giá nhập khẩu cho loại S235 giảm 2.5 USD/tấn xuống còn 470 USD/tấn CFR.
Về nhập khẩu, các nhà cung cấp Trung Quốc đã giảm mạnh giá, chào bán thép loại Q195 ở mức 466–480 USD/tấn CFR. Từ Ai Cập, có hàng với giá 550–555 USD/tấn CFR; từ Malaysia, chào giá 530–540 USD/tấn CFR (chưa xác minh). Thép từ lò cảm ứng (IF) có giá 575 USD/tấn CFR. HRC FOB Biển Đen giảm 2.5 USD/tấn xuống 460 USD/tấn FOB.
Xuất khẩu của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ vẫn chậm trong 7 ngày qua, dù tỷ giá EUR/USD có lợi, đạt đỉnh 1:1,16 vào ngày 12 tháng 6. Giá nhập khẩu từ Viễn Đông xuống mức thấp nhiều năm và giá nội địa tại Ý giảm đang làm chậm hoạt động giao dịch từ Thổ Nhĩ Kỳ.
Các nhà xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ chào bán hàng giao tháng 8 ở mức 535–560 USD/tấn FOB, một số đơn hàng nhỏ được chốt ở mức 540–555 USD/tấn. Tới Ý và miền Nam châu Âu, mức 530–550 eur/tấn CFR bao gồm thuế là khả thi.
- Giá HRC châu Âu tiếp tục giảm vào ngày 13 tháng 6 do lo ngại gia tăng về tình hình địa chính trị và thương mại. Giá từ người mua đã giảm trong tuần qua, khi họ tìm cách xác định mức đáy của giá thép tại EU. Các nhà máy ở Tây Bắc Âu được cho là đã chốt các giao dịch hoặc chào bán với mức giá rất cạnh tranh tại khu vực Nam và Đông Âu, khiến người mua lo ngại.
HRC hàng ngày tại Ý giảm 4.5 eur/tấn xuống 573.50 eur/tấn giao tại nhà máy, còn ở khu vực Bắc Âu giảm 1.25 eur/tấn xuống 586 eur/tấn.
Trên thị trường nhập khẩu, một đại lý của nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cho biết các chào giá đang ở mức 510–515 eur/tấn CFR (chưa bao gồm thuế bán phá giá nếu có), như cao hơn giá cơ bản sẽ cao hơn nếu không có thêm phụ phí nào.
EU gần đây đã điều chỉnh hạn ngạch nhập khẩu đối với 17 loại sản phẩm — thép hình và thép góc, dẫn đến đồn đoán rằng khối này có thể sẽ làm điều tương tự với thép cuộn cán nóng (HRC), đưa Indonesia vào nhóm hạn ngạch "các quốc gia khác", do thị phần ngày càng tăng của nước này. Đồng thời, ngày càng có nhiều đồn đoán về một vụ kiện chống bán phá giá đối với Indonesia, vì giá từ một nhà máy ở nước này thường thấp hơn đáng kể so với các chào hàng xuất khẩu khác.
Tấm mỏng được báo giá ở mức 650–660 eur/tấn giao tại Ý và Bắc Âu vào ngày 13 tháng 6.
- Giao dịch thép cuộn cán nguội (CRC) Thổ Nhĩ Kỳ tăng nhẹ nhờ doanh số xuất khẩu, trong khi tiêu thụ nội địa vẫn yếu. Giao dịch HDG (thép mạ kẽm nhúng nóng) vẫn chậm.
Giá xuất khẩu HDG Thổ Nhĩ Kỳ không đổi ở mức 710 usd/tấn FOB. Giá xuất khẩu CRC cũng ổn định ở 610 usd/tấn FOB; Giá chào CRC nội địa dao động từ 690–710 usd/tấn xuất xưởng, nhưng lượng giao dịch rất thấp. Giá chào HDG Z100 0.5mm nội địa ở mức 745–780/tấn xuất xưởng. Hầu hết các nhà máy cán lại khác chào ở khoảng 760 usd/tấn xuất xưởng. HDG Z60 2mm được chào ở mức 660–680 usd/tấn xuất xưởng.
Doanh số bán tới EU tăng trong tuần trước cho hàng giao vào quý 3, mặc dù hạn ngạch dự kiến sẽ hết sớm trong vài ngày đầu của quý III do khối lượng bán ra lớn. Hạn ngạch bảo hộ cho CRC của EU sẽ hết nhanh hơn HDG vì rất khó bán khi bị áp thuế chống bán phá giá. Tuần qua, thép Việt Nam đã vắng bóng trên thị trường EU do thời gian giao hàng không thuận lợi, nhưng điều này cũng không giúp người bán dễ chốt đơn hơn. Ngoài ra, do cuộc điều tra chống bán phá giá đang diễn ra đối với thép Trung Quốc và Hàn Quốc, dự đoán nhập khẩu PPGI từ Trung Quốc sẽ giảm mạnh trong vài tháng tới.
Thép mạ sơn sẵn (PPGI) loại RAL9002 20+5 micron Z100 0.5mm giữ ổn định ở mức 890–900/tấn usd/tấn xuất xưởng, trong khi loại thương mại 15+5 micron dao động khoảng 840–850 usd/tấn.
Giá thép dẹt tiếp tục chịu nhiều sức ép trong bối cảnh bất ổn thuế quan và căng thẳng địa chính trị mới nhất tại Trung Đông. Người mua đang nghe ngóng tình hình để ra quyết định phù hợp nên vẫn chưa muốn tích trữ thêm hàng vì có quá nhiều rủi ro. Các biện pháp bảo hộ, thuế quan cũng tác động tiêu cực lên tâm lý thị trường. Dự báo thị trường sẽ khó có các giao dịch được thực hiện, giá sẽ vẫn trong xu hướng đi xuống.
THỊ TRƯỜNG PHẾ
-Trong tuần từ ngày 9-13 tháng 6, các nhà máy Việt Nam ngày càng trở nên thận trọng hơn trong việc mua phế nhập khẩu do lo ngại về doanh số bán thép chậm trong mùa mưa.
Phế HMS 1/2 80:20 CFR Việt Nam từ tàu lớn giảm 3 USD/tấn trong tuần xuống còn 342 USD/tấn.
Hầu hết các nhà máy Việt Nam đã giảm giá mục tiêu trong tuần, lo ngại rằng doanh số bán thép hạ nguồn sẽ chậm lại sau khi mùa mưa bắt đầu. Ngoài ra, hoạt động xây dựng thường giảm vào tháng 7-8.
-Giá chào xuất khẩu sắt phế chủ đạo của Nhật Bản vẫn ở mức cao sau phiên đấu thầu xuất khẩu Kanto vào ngày 11 tháng 6, nhưng một số người bán trở nên tích cực hơn vì nhu cầu ở nước ngoài vẫn yếu.
Giá hàng ngày với phế H2 FOB Nhật Bản giảm 400 yên/tấn (2,77 USD/tấn) xuống còn 41.400 yên/tấn (288 USD/tấn) hôm thứ Sáu. Giá hàng tuần với HS FOB Nhật Bản không thay đổi ở mức 45.200 yên/tấn (315 USD/tấn).
Đàm phán xuất khẩu khan hiếm trong tuần vì phiên đấu thầu xuất khẩu được chốt với giá cao hơn dự kiến, giữ vững giá mục tiêu của các nhà giao dịch.
Phế đóng container thu hút nhiều nhu cầu nhất từ Đài Loan trong tuần, với HMS 1/2 80:20 có sẵn ở mức 295 USD/tấn CFR. Chào giá H1/H2 50:50 của Nhật Bản ở mức 315 USD/tấn CFR vẫn quá cao đối với người mua Đài Loan.
-Giá phế nội địa hầu hết không thay đổi ở Nhật Bản trong tuần vì không có thay đổi trong các yếu tố cung và cầu cơ bản trên thị trường địa phương. Hầu hết các nhà cung cấp Nhật Bản không vội vàng bán vì việc thu gom phế chậm. Giá mua H2 vẫn ở mức 41.000 yên/tấn tại nhà máy Tahara của Tokyo Steel và 40.500 yên/tấn tại nhà máy Utsunomiya.
Giá thu gom tại bến cảng ở Vịnh Tokyo vẫn không thay đổi trong tuần, với phế H2 ở mức 40.000-41.000 yên/tấn FAS, phế HS ở mức 44.500-45.500 yên/tấn FAS và phế shindachi ở mức 44.000-45.000 yên/tấn FAS.
Thị trường phế nhìn chung vẫn chậm do chịu ảnh hưởng bởi thị trường thép thành phẩm. Giá duy trì không đổi vì có ít giao dịch diễn ra. Dự báo giá phế sẽ dao động trong một phạm vi hẹp.