Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Tổng quan thị trường thép thế giới tuần 41

Nhật Bản

Tại thị trường phế, ngay ngày đầu tuần, nhà sản xuất thép Tokyo Steel Manufacturing đã bất ngờ tuyên bố tiếp tục nâng giá thu mua phế thêm 500-1.000 Yên/tấn (5-10 USD/tấn) có hiệu lực từ ngày  8/10 tại hầu hết các nhà máy thuộc công ty trừ giá thu mua phế tại Tahara là duy trì không đổi. Sau khi điều chỉnh, giá thu mua phế H2 tại các xưởng ở Utsunomiya đạt mức 33.500 Yên/tấn (366 USD/tấn), trong khi tại Tahara, giá thu mua đạt mức 34.000 Yên/tấn. Quyết định này khiến cho các thương nhân tỏ ra rất ngạc nhiên và dự đoán Tokio Steel đang muốn tăng công suất sản xuất để đáp ứng nhu cầu xây dựng hoặc có thể đây là chính sách của Tokio Steel nhằm ngăn chặn giá thép giảm sâu.

Tuy nhiên thông báo của Tokio Steel không giúp cho thị trường phế H2 xuất khẩu tăng giá. Cụ thể, tại phiên đấu giá phế xuất khẩu H2 giao ngày 15/12 của  Kanto Tetsugen diễn ra vào ngày 09/10; giá dự thầu thắng phiên giảm nhẹ còn 32.800 Yên/tấn (338 USD/tấn) FAS, thấp hơn tháng trước 260 Yên/tấn (2.7 USD/tấn), tương đương với mức giá 33.900 Yên/tấn FOB. Tuy vậy, kết quả trên không tác động gì nhiều tới giá xuất khẩu hiện tại; hiện các thương nhân đang mua phế H2 tại mức giá 32.500-33.000 Yên/tấn FAS vịnh  Tokyo và đặt ra mục tiêu xuất khẩu là 33.500-34.000 Yên/tấn FOB.

Tại thị trường thép tấm, giá phân phối thép tấm hạng nặng Nhật đã tăng lên do nhu cầu tiêu thụ được cải thiện trong bối cảnh nguồn cung hạn chế. Hiện tại, giá thép tấm SS400 dày 19mm  (1,524x3,480mm) tại Tokyo đạt mức  82.000-84.000 Yên/tấn (845-866 USD/tấn). Đối với mặt hàng thép tấm thương phẩm không phân loại, giá đạt mức 78.000-80.000 Yên/tấn. Như vậy, gía cả hai mặt hàngnày đều đã nhích thêm 1.000 Yên/tấn (10 USD/tấn) so với đầu tháng 10. Dự báo giá mặt hàng này sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới.

Tại thị trường thép xây dựng, nhà sản xuất máy Nippon Steel & Sumitomo Metal Corp (NSSMC) đã thông báo giữ nguyên giá thép dầm hình H giao ngay tháng 10 vào hôm qua (10/10) do mức giá tăng trước đó là 3.000 Yên/tấn (31 USD/tấn) vẫn chưa được thị trường chấp nhận. Công ty này không tiết lộ giá niêm yết chính thức,tuy nhiên, theo các nguồn tin nhận định, giá hiện tại đối với mặt hàng thép dầm hình H SS400 cỡ lớn tại thị trường giao ngay Tokyo đạt mức 76.000-77.000 Yên/tấn (777-787 USD/tấn), tăng thêm 3.000 Yên/tấn so với tháng qua. Chi nhánh của NSSMC, Nippon Steel & Sumikin Shapes cũng đã thông báo duy trì giá không đổi đối với các mặt hàng giao tháng 10.

Đài Loan

Tuần này, nhà sản xuất thép cây lớn nhất Đài Loan, Feng Hsin Iron & Steel, đã thông báo giữ nguyên giá niêm yết thép cây không đổi trong 2 tuần liên tiếp dựa vào sự hỗ trợ từ giá phế thế giới. Cụ thể, giá niêm yết của thép cây kích cỡ cơ bản không đổi so với tuần trước, đạt mức 17.600 Đài tệ/tấn (599 USD/tấn) xuất xưởng Đài Trung.

Ấn Độ

Tuần này, giá HRC nội địa Ấn Độ vẫn ổn định do khách hàng chờ đợi tín hiệu xu hướng thị trường rõ ràng hơn. Từ đầu tháng đến này, nhìn chung do sức mua trì trệ nên giá HRC vẫn duy trì tại mức cũ. Tuy nhiên các nhà sản xuất Ấn Độ vẫn tỏ ra lạc quan vì cho rằng sức mua sẽ tăng do các hoạt động xây dựng tại đây đang dần phục hồi. Tại thị trường giao ngay, giá HRC A/B IS 2062 >=3mm đã tăng thêm 1.4% hưởng ứng theo giá xuất xưởng. Vào đầu tháng 10, giá mặt hàng này đạt mức 36.500-37.500 Rupees/tấn (509-606 USD/tấn) xuất xưởng và vẫn được duy trì không đổi ở tuần sau đó.

Trung Đông

Tuần này, nhu cầu tiêu thụ HRC tại hai thị trường lớn nhất của bán đảo  Ả Rập là Ả Rập Saudi và Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất đã chậm lại trước đêm Lễ Hội Eid và kéo dài trong suốt tuần tới. Hiện tại, gía chào bán HRC SS400/ST37 từ Nhật Bản đạt mức 600-610 USD/tấn CFR Dubai và Dammam; giá chào từ Đài Loan không mang tính cạnh tranh tại mức giá 630 USD/tấn CFR. Trong khi đó, giá chào từ Hàn Quốc cũng khá cao, đạt mức 620 USD/tấn CFR đối với mặt hàng 50, cao hơn  30-50 USD/ tấn so với gía hàng nội địa trong khu vực. Giá chào bán từ Ấn Độ cho lô hàng giao tháng 11 dưới  mức 600 USD/tấn CFR Dubai, trong khi Meinvest là 560 USD/tấn CFR Dubai, mặc dù một nhà nhập khẩu đề nghị mức giá chiết khấu 5-10 USD/tấn có thể được bảo toàn khi mua ngay sau Lễ EID. Các thành viên thị trường dự báo nhu cầu tiêu thụ sẽ tăng lên sau Lễ Eid, tuy nhiên, dự báo về giá vẫn rất mâu thuẫn.

Mỹ

Sau một tuần thông báo tăng giá tấm mỏng, đến tuần này mức giá mới dường như vẫn chưa thể xâm nhập vào thị trường khi người mua tỏ ra khá thờ ơ, chỉ mua cầm chừng hoặc thậm chí là họ đã tranh thủ ký hợp đồng tại thời điểm vừa mới có thông báo với mức giá trước đây. Platts cũng không có đủ cơ sở để nâng giá niêm yết lên nên vẫn duy trì giá xuất xưởng của HRC và CRC lần lượt tại 640-650 USD/tấn và ngắn745-755 USD/tấn ngắn. Giới thị trường đều cho rằng đợt tăng giá lần này sẽ rất khó để đạt được mà nhất là ở miền Nam nước này.

Các chào giá thép cây của Mexico trong tuần này đã tăng hơn 20 USD/tấn so với tháng trước lên khoảng 650 USD/tấn vì Thổ Nhĩ Kỳ rút khỏi thị trường Hoa Kỳ sau vụ kiện chống bán phá giá đang vào giai đoạn điều tra, nhưng do sức mua chậm và tâm lý thận trọng của người mua khiến cho giá trong nước vẫn đang có chiều hướng đi ngang khoảng 600-610 USD/tấn ngắn xuất xưởng.

Các nhà máy đã bắt tay nhau để đồng loạt nâng giá thép không gỉ, chính sự kiên quyết giữ giá của các nhà máy và nhu cầu tiêu thụ mạnh lên là nhân tố để đợt tăng giá được thành công. Dự đoán là giá sẽ tiếp tục tăng trong tháng 11 tới. CRC loại 304 tăng lên 117-120 cents/lb; CRC 316 có giá 161-164 cents/lb và CRC 430 hiện chốt tại 76-79 cents/lb.

Thép tấm A36 vẫn duy trì tại 690-710 USD/tấn ngắn kể từ tháng 09 đến tuần này mặc dù trong tuần trước nhà máy ArcelorMittal USA đã nỗ lực nâng giá bán lên thêm 50 USD/tấn ngắn.

Thổ Nhĩ Kỳ

Các nhà máy đã nâng giá thép cây xuất khẩu thêm 5 USD/tấn so với đầu tuần lên 580-585 USD/tấn FOB do giá phế nhập khẩu tăng 9 USD/tấn từ cuối tuần trước tới 375 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ. Chính điều này đã làm giảm đi lợi nhuận của các nhà sản xuất, nếu như trước đây chênh lệch giữa giá phế và thép cây là 210-230 USD/tấn thì hiện nay khoảng cách này đã thu hẹp lại chỉ còn 202-211 USD/tấn nên buộc họ phải nâng giá bán để đảm bảo lợi nhuận của mình. Tuy nhiên, họ đang lo ngại rằng những thị trường lớn như Ả Rập Saudi, Yemen, Châu Phi và UAE sẽ không chấp nhận giá chào bán cao hơn vì nguồn hàng ở đó vẫn còn nhiều trong khi sức mua lại yếu do sắp tới lễ Eid. Vả lại chỉ có mỗi nguyên nhân phế tăng giá thì cũng chưa đủ sức để thuyết phục tăng giá thép cây lên.

Giá thép cuộn không gỉ nhập khẩu vẫn duy trì ổn định từ tháng trước tới nay do giá niken và sức mua đều suy giảm khi sắp diễn ra lễ Eid trong tuần tới. Thép cuộn cán nguội không gỉ loại 304 dày 2mm sản xuất tháng 11 của Châu Âu được chào bán với giá 2.500-2.550 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ. Còn các nhà máy ở Viễn Đông có giá bán cho loại này khoảng 2.400-2.450 USD/tấn CFR (gồm 2% thuế nhập khẩu), chào giá của Đài Loan và Trung Quốc là 2.300-2.400 USD/tấn CFR.

Giá thép ống hàn trong nước và xuất khẩu đều mất khoảng 10 USD/tấn kể từ cuối tháng 09 theo đà giảm của HRC cũng như lực mua yếu.

Trong tuần này chỉ có HDG và PPGI là vẫn bình ổn lần lượt tại 790-820 USD/tấn xuất xưởng và 980-1.020 USD/tấn xuất xưởng; HRC cũng duy trì không đổi tại 590-600 USD/tấn xuất xưởng giữa bối cảnh sức mua trên thị trường trì trệ trước lễ Eid al-Adha.

Châu Âu

Thép thanh thương phẩm được nâng giá bán lên thêm 50-60 EUR/tấn trong hai tháng trước, tại Bắc Âu giá dao động quanh 150-170 EUR/tấn cơ bản gồm phí vận chuyển, còn tại Nam Âu có giá 150 EUR/tấn xuất xưởng cơ bản, đồng thời các khoản phụ phí cũng tăng theo khiến cho thép thanh thương phẩm có giá giao thực tế là 550 EUR/tấn, mặc dù số lượng hàng bán ra vẫn còn rất hạn chế nhưng do nguồn cung, hàng dự trữ giảm nên đợt tăng giá này đã thành công.

Thép cây xuất khẩu từ Nam Âu tới Algeria biến động giảm nhẹ do người mua dự đoán giá phế sẽ giảm nên không chấp nhận giá chào bán gần đây của các nhà máy. Tuy giá chào bán là 450 EUR/tấn FOB nhưng giá đặt mua chỉ có 440 EUR/tấn FOB. Còn tại Tây Bắc Âu giá vẫn ổn định khoảng 500-510 EUR/tấn giao thực tế nhưng đang chịu nhiều sức ép do giá phế giảm và sự cạnh tranh của hàng nhập khẩu, các khách hàng chỉ đang mua cầm chừng. Ngược lại, giá thép dây dạng kéo ở khu vực này đang tăng lên 490-500 EUR/tấn gồm phí vận chuyển do gặp trục trặc trong việc giao hàng của nhà máy Riva.

Mặc dù thị trường tiêu thụ thép tấm ở Tây Bắc Âu tăng trong thời gian qua nhưng cũng chưa đủ lực để giữ mức giá tăng gần 20 EUR/tấn vào giữa tháng 07 được duy trì. Thép tấm dày loại S235 trong nước được chốt tại 500-520 EUR/tấn xuất xưởng. Trong thời gian qua, chỉ có Ấn Độ là tích cực xuất khẩu sang thị trường này với giá 440-450 EUR/tấn CIF Antwerp còn hàng nhập từ Trung Quốc thì không thấy.

Trong tuần này, giá thép cuộn Bắc Âu đã được điều chỉnh nhẹ khi thị trường ảm đạm do thiếu các hoạt động thu mua với quy mô lớn và sự biến động của tỷ giá giữa euro và đôla. HRC và CRC có giá lần lượt là 460 EUR/tấn xuất xưởng và 520-530 EUR/tấn xuất xưởng.

CIS

Trong tuần này chào giá phôi thanh CIS tăng lên 505 USD/tấn FOB Biển Đen sau khi giá phế xuất khẩu sang Thổ Nhĩ Kỳ tăng 4 USD/tấn hôm thứ Hai. Thế nhưng các thị trường xuất khẩu ở khu vực Trung Đông, Bắc Phi vẫn khá trầm lắng do nhu cầu tiêu thụ yếu và họ cũng đang nỗ lực thương lượng để có thể mua với giá thấp hơn.

Các chào giá HRC và CRC từ CIS tới Thổ Nhĩ Kỳ vẫn không đổi từ giữa tháng 09 cho đến nay, mặc dù giá trong nước đã giảm khi sắp diễn ra lễ Eid vào tuần tới. Được biết HRC của Ukraina có giá khoảng 545-555 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ, còn chào giá của Nga vẫn duy trì tại 560-570 USD/tấn CFR. Chào giá CRC từ Ukraina và Nga cũng vẫn duy trì lần lượt tại 630-635 USD/tấn CFR và 645-655 USD/tấn CFR.