Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Tổng quan thị trường thép thế giới tuần 40/2014

Mỹ

Mặc dù chỉ số PMI Mỹ tháng 9 vẫn tăng nối tiếp đà tăng trưởng 16 tháng, tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng đã chậm lại. Gía thép Mỹ cũng suy yếu trong tuần do nhu cầu tiêu thụ chậm chạp, áp lực hàng nhập khẩu và giá nguyên liệu thô giảm.

Các nhà máy thép Mỹ đã giảm giá thu mua phế vụn xuống 20 USD/tấn so với tháng 9. Phế cắt cũng được giao dịch ở mức thấp hơn 15 USD/tấn so với tháng 9 trong khi  phế chất lượng cao giảm 10-15 USD/tấn so với tháng 9.

Giá xuất khẩu phế Mỹ tới Đài Loan cũng giảm mạnh do các thương nhân Mỹ đã chấp nhận giá chào mua 300 USD/tấn CFR Đài Loan đối với phế HMS 80:20, giảm 55 USD/tấn so với tháng 8.

Giá thép thanh thương phẩm Mỹ tiếp tục va phải áp lực từ hàng nhập khẩu, buộc các nhà máy trong nước phải chiết khấu và cạnh tranh để tìm kiếm đơn hàng. Mức chiết khấu dao động từ 60-80 USD/tấn.

Thị trường thép cuộn Mỹ cũng suy yếu và giá sàn vẫn chưa cố định do tâm lý thị trường tiêu cực. Các nhà máy đang nỗ lực bán hàng tại mức giá 650-660 USD/tấn, tuy nhiên, không thu hút được đơn hàng.

Trong khi đó, giá thép dầm bản rộng Mỹ bình ổn, tuy nhiên, vài người mua dự báo các nhà máy trong nước sẽ giảm giá hoặc chiết khấu để đối phó với hàng nhập khẩu giá rẻ. Giá nhập khẩu thép dầm  tháng 1 hiện đạt mức 720-740 USD/tấn giao bằng xe tải tại cảng.

Thổ Nhĩ Kỳ

Nằm trong xu hướng chung của thế giới, giá thép Thổ Nhĩ Kỳ cũng giảm trước nhu cầu tiêu thụ trong và ngoài nước suy yếu, giá phế nhập khẩu giảm và đồng nội tệ mất giá trầm trọng.

Người mua trên thị trường HRC Thổ Nhĩ Kỳ đã chọn cách hoãn lại các đơn hàng trong mấy ngày gần đây do dự báo giá còn giảm trong tuần tới theo đà giảm giá nguyên liệu thô và giá HRC nhập khẩu suy yếu nhẹ trong bối cảnh đồng dolla tăng mạnh so với Lira. Gía HRC toàn cầu đang suy yếu do sức mua thấp và dự báo các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ sẽ giảm giá tối thiểu 5 USD/tấn trong tháng 10.  Các nhà máy cũng đã bắt đầu cung cấp chiết khấu. Gía chào HRC trong nước đạt mức 590-00 USD/tấn xuất xưởng đối với thép sản xuất tháng 11. Tuy nhiên, vài nhà máy đang chiết khấu tầm 5 USD/tấn cho các đơn hàng lớn.

Trong khi đó, giá chào xuất khẩu tương đối bình ổn tại mức 580-585 USD/tấn FOB do nhu cầu tiêu thụ thấp từ các thị trường xuất khẩu chính, tuy nhiên, chiết khấu cũng có sẵn cho các đơn hàng xuất khẩu. Giá chào nhập khẩu từ CIS đã giảm 5 USD/tấn còn 550-570 USD/tấn.

Giá phôi thanh Thổ Nhĩ Kỳ hiện tương đối ổn định sau khi đã giảm 10-15 USD/tấn trước đó. Trong khi phôi thanh thương phẩm trong nước bình ổn ở mức 520-530 USD/tấn xuất xưởng, giá chào nhập khẩu tiếp tục giảm. Gía chào từ Biển Đen đạt mức 500-510 USD/tấn CIF trong khi Trung Quốc chỉ có 465 USD/tấn CIF.

CIS

Căng thẳng leo thang tại miền đông Ukraina làm gián đoạn quá trình sản xuất cũng như giao hàng  cộng với các chế tài của Mỹ và EU lên Nga đã gây khó khăn cho thị trường xuất khẩu phôi thanh và thép CIS.

Mặc dù Nga đã giảm giá chào tới Thổ Nhĩ Kỳ xuống 5-10 USD/tấn còn 505-510 USD/tấn CFR (485-495 USD/tấn FOB Biển Đen) nhưng vẫn chưa nhận được phản hồi. Các nhà cán lại Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục trì hoãn đơn hàng. Bên bên cạnh việc kiên trì giữ giá chào mua, các nhà máy Nga còn phải chịu áp lực từ nhiều yếu tố chẳng hạn như việc dễ điều chỉnh giá  của đối thủ, giá quặng giảm xuyên đáy và sự cạnh tranh mạnh mẽ từ Trung Quốc. Các nhà máy Brazil, điển hình là ThyssenKrupp đang cắt giảm giá chào tới Thổ Nhĩ Kỳ, còn 490 USD/tấn CFR.

Doanh số bán hàng tới Eu vẫn thất vọng, với giá đạt mức 500-505 USD/tấn FOB Biển Đen đã duy trì cách đây 10 ngày.

Mặc  dù nguồn cung thấp nhờ chặt nhờ các hoạt động bảo trì và cúp điện tại các nhà máy lớn nhưng giá xuất khẩu cuộn trơn và thép cây CIS vẫn  giảm.

Các nhà máy Nga đã giảm giá tháng 10 xuống 300-350 Rub/tấn (7.5-9 USD/tấn), kết thúc đà tăng liên tục của giá thép cây Nga kể từ tháng 2.

Tại các thị trường Trung Đông và Địa Trung Hải, giá thép cây và cuộn trơn CIS đã giảm còn 525-535 USD/tấn FOB Biển Đen do nhu cầu tiêu thụ thấp và giá nhập khẩu cạnh tranh từ Trung Quốc.

Trong khi giá chào phôi thanh  thấp nhất từ CIS là 485 USD/tấn FOB Biển Đen, các thương nhân dự báo giá chỉ được chấp nhận ở mức 480-482 USD/tấn FOB. Các nhà máy Ukraina vẫn không hạ giá chào xuống dưới mức 485 USD/tấn FOB Biển Đen, bất cứ giá nào dưới mức này đều thanh toán trước đầy đủ. Trong khi đó, giá chào từ Trung Quốc vẫn hiện diện trên thị trường.

Giá chào nhập khẩu thép cuộn từ các nhà máy CIS cũng đã giảm do áp lực cạnh tranh mạnh mẽ từ Trung Quốc. Gía chào HRC Trung Quốc hiện đã xuống dưới mức 500 USD/tân CFR, có thể kéo theo giá HRC CIS với thông tin vài nhà máy đã hạ giá chào bán.

Metinvest đã trở lại sản xuất trong tháng 10 và bán HRC tới Thổ Nhĩ Kỳ tại mức giá 540-545 USD/tấn CIF, giảm so với giá mục tiêu.

Nhà máy MMK Nga đang chào HRC tháng 11 tại mức 540 USD/tấn FOB Biển Đen. Gía này khó mà đạt được  theo nhận xét của thương nhân Châu Âu khi mà giá dự thầu từ Thổ Nhĩ Kỳ là 540 USD/tấn CFR. Ông cho biết nhà máy này sẽ hạ giá để cạnh tranh.

Châu Âu

Thị trường thép tấm dày Tây Bắc Âu dường như trầm lắng trở lại  theo sau một tháng kinh doanh khá tốt với giá tăng ở mức vừa phải. Hiện tại, giá thép đã chững lại tại mức 520-540 Euro/tấn đã tính phí giao hàng đối với thép tấm S235. Một nhà môi giới ở Benelux cho biết đã đặt mua một lô hàng nhỏ tại mức 550 Euro/tấn, tuy nhiên, đối với các tải trọng lớn hơn thì giá có thể ít hơn 20 Euro/tấn. Trong khi đó, một thương nhân tại Anh chào bán với giá thấp nhất là 400-405 Pounds/tấn (513-520 Euro/tấn) đã gồm phí giao hàng.

Nhập khẩu thép tấm thương phẩm từ các nước thứ ba vẫn yếu mặc dù giá chào từ Trung Quốc đã giảm dưới mức 500 USD/tấn FOB Trung Quốc. Giá chào từ Ấn Độ đạt mức 520 USD/tấn FOB đối với thép tấm S275.

Giá thép cuộn Tây Bắc Âu hầu như không đổi trong tuần này. Giá chào HRC nội địa cố định ở mức 420-435 Euro/tấn đã tính phí giao hàng. Gía CRC và thép mạ cũng duy trì ở mức 510-520 Euro/tấn đã tính phí giao hàng.

Đông Á

Thị trường  phế nhập khẩu Đông Á diễn ra chậm chạp trong tuần này  do các nhà máy đã rời bỏ thị trường. Giá thép thành phẩm Trung Quốc giảm theo đà suy yếu của giá quặng sắt giao ngay đã gây sức ép lên thị trường phế trong khu vực.

Cụ thể như, các nhà máy Việt Nam đặt mua ít phế hơn. Một nhà máy Thái Lan đã đặt mua một lô phế HMS 80:20 (lô lớn) giao tháng 11 từ một nhà cung cấp ở Mỹ với giá 357 USD/tấn CFR trong khi giá chào bán là 360 USD/tấn CFR.

Trong khi đó, phế HMS 80:20 (trong container) đặt mua tại Đài Loan có giá là  300 USD/tấn CFR.

Hàn Quốc

Posco Specialty Steel đã quyết định sẽ duy trì giá bán trong nước cho cuộn trơn và thép thanh không gỉ austenite trong tháng 10 do giá niken vẫn nối tiếp đà giảm từ tháng 8 nhưng mức giảm không đáng kể.

Posco SS không tiết lộ giá bán của mình nhưng theo các nguồn tin ước đoán thì giá cơ bản của cuộn trơn loại 300-series trong tháng 10 sẽ vẫn duy trì mức 4-4,1 triệu Won/tấn (3.792-3.887 USD/tấn).

Đài Loan

Feng Hsin Iron & Steel đã giảm giá niêm yết bán trong nước cho thép thanh chịu lực xuống 300 Đài tệ/tấn (10 USD/tấn) do giá phế toàn cầu tiếp tục suy yếu. Theo đó, thép cây đường kính chuẩn 13mm của Feng Hsin còn 17.100 Đài tệ/tấn (563 USD/tấn) xuất xưởng Đài Trung có hiệu lực từ ngày 29/9. Feng Hsin được xem là người thiết lập giá thép cây cho thị trường thép trong nước.

Trong khi đó,  Yusco sẽ giảm giá tất cả các loại thép tấm/cuộn cán nóng và cán nguội không gỉ cho những lô hàng xuất khẩu tháng 11 xuống 50 USD/tấn. Yusco cũng giảm giá trong nước cho các sản phẩm thép không gỉ loại 300-series và 400-series xuống lần lượt 2.000 Đài tệ/tấn và 500 Đài tệ/tấn.

Theo thông báo này, giá niêm yết trong nước của công ty cho HRC 304 2mm và CRC 2B 2mm còn lần lượt 100.500 Đài tệ/tấn (3.298 USD/tấn) và 104.500 Đài tệ/tấn, theo tính toán của Platts từ những thông báo trước đó của Yusco. Yusco không tiết lộ giá xuất khẩu.

Nhà cán lại Đài Loan Chung Hung Steel vẫn duy trì giá HRC và CRC cho các lô hàng xuất khẩu tháng 11 và bán ở trong nước vào tháng 10 với giá bán HRC và CRC ở trong nước của Chung Hung cho những lô hàng giao tháng 10 sẽ lần lượt quanh mức 18.664 Đài tệ/tấn (612 USD/tấn) và 22.482 Đài tệ/tấn. Công ty có cũng sẽ đưa ra nhiều khoản chiết khấu tới khách hàng dựa trên số lượng đặt hàng. Còn giá xuất khẩu HRC và CRC của nhà máy cho những lô hàng giao tháng 11 sẽ vẫn lần lượt là 560 USD/tấn và 650 USD/tấn FOB Đài Loan.

Nhật Bản

Nippon Steel & Sumikin Stainless (NSSC) đã quyết định sẽ duy trì giá bán trong nước cho cuộn trơn không gỉ đối với những hợp đồng từ tháng 09 đến tháng 11 (sản xuất tháng 10-12), nhưng sẽ tăng phí phụ thu áp dụng cho những người mua thép có chứa thành phần hợp kim.

Tuy nhiên, nhà máy lại quyết định điều chỉnh phí phụ thu tùy thuộc vào thành phần hợp kim. Chẳng hạn như, giá của thép dây loại SUSXM7, SUS303 và SUS310S đã được nâng lên thêm 10.000 Yên/tấn (91,4 USD/tấn) so với những hợp đồng tháng 09.

Các nhà cán lại Nhật Bản đã bắt đầu nâng giá HDG, thép tấm mạ màu và mạ Galvalume nhằm nỗ lực bù đắp chi phí đầu vào cao hơn khi Yên Nhật mất giá.

Nippon Steel & Sumikin Coated Sheet bắt đầu các cuộc thương lượng với khách hàng từ tháng trước và sẽ tăng thêm 10.000 Yên/tấn (91 USD/tấn) cho giá HDG, thép tấm mạ màu và mạ Galvalume.

Các nhà cán lại từ chối tiết lộ giá bán thực tế các sản phẩm của họ nhưng giá trên thị trường hiện nay cho HDG 1.6mm (9,144 x 18,288mm) ở Tokyo khoảng 126.000-128.000 Yên/tấn (1.146-1.165 USD/tấn).

Ấn Độ

Giá HRC tại thị trường Ấn Độ không đổi trong tuần này do giao dịch sụt giảm trong bối cảnh diễn ra lễ hội Dussera vào tuần này. Ngoài ra còn do HRC Trung Quốc được chào giá hấp dẫn tới Ấn Độ.

Giá giao dịch của HRC IS2062 loại dày từ 3mm trở lên trong khoảng 34.500-35.500 Rupees/tấn (558-575 USD/tấn) xuất xưởng, không đổi so với tuần trước. Mức giá này tương đương 519-535 USD/tấn CFR Mumbai nếu quy ra giá nhập khẩu, trong đó thuế nhập khẩu là 7,5% cho HRC từ hầu hết các nước. Các chào giá HRC SS400 dày từ 3mm trở lên xuất xứ Trung Quốc là 505-510 USD/tấn CFR Mumbai (470-475 USD/tấn FOB).