Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Tổng quan thị trường thép thế giới tuần 38

 Thổ Nhĩ Kỳ

Các nhà máy thép Thổ Nhĩ Kỳ tuần này phải đối mặt với áp lực gia tăng từ chi phí đầu vào tăng trong khi giá thép đã suy yếu hoặc có nguy cơ suy yếu vào tuần tới dựa trên nhu cầu tiêu thụ thấp.

Các nhà máy thép cây vẫn kiên trì giữ giá xuất khẩu  tại mức 565-570 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế. Tuy nhiên, dự báo tuần tới giá sẽ xuống mức  560 USD/tấn .Giá chào thép cây 12-32mm trong nước là 577-587 USD/tấn chưa tính VAT 18%.

Trong khi đó, giá bán lẻ trung bình thép cây đường kính 6-8mm Thổ Nhĩ Kỳ vào Abu Dhabi đã chạm mức thấp 18 tháng. Thép cây dường kính nhỏ được bán trung bình tại mức 2.600 AED/tấn (707.90 USD/tấn) trong tháng 7, mức thấp nhất kể từ đầu năm nay khi giá bán lẻ tháng 1 là 2.500 AED/tấn.

Tại thị trường thép cuộn, bất chấp nỗ lực tăng giá từ các nhà máy, giá thép vẫn đi ngang do nhu cầu tiêu thụ không đủ mạnh hỗ trợ giá tăng trong bối cảnh đồng dolla tăng giá.

Các nhà máy nội địa nhìn chung đang chào bán HRC tại mức 590-605 USD/tấn xuất xưởng giao tháng 11 với giá giao dịch là 588 USD/tấn đối với các đơn hàng lớn. Gía chào xuất khẩu cũng vẫn ổn định tại mức 580-585 USD/tấn FOB. Gía chào nhập khẩu từ CIS hiện đạt mức 555-575 USD/tấn CFR.                                                   

Nhu cầu tiêu thụ tại thị trường CRC cũng tương tự. Các nhà máy trong nước vẫn chào bán tại mức 685-700 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá chào xuất khẩu là 675-680 USD/tấn xuất xưởng. Trong khi đó, giá thép mạ không có tiến triển gì trong mấy tuần gần đây do sức mua thấp mặc dù các nhà máy đã  cố gắng tăng giá. Gía chào HDG 0.5mm trong nước vẫn ở mức 790-810 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá chào xuất khẩu 0.5mm đạt mức thấp 775-785 USD/tấn FOB. Gía chào PPGI 9002 0.5mm cũng ổn định tại mức 880-920 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá chào xuất khẩu là 870-900 USD/tấn FOB.

Mỹ

So với các nền công nghiệp thép khác, Mỹ hiện tại là nước có thị trường thép phát triển khá bền vững với chỉ số sản xuất ổn định. Tuy nhiên, giá thép cũng không tránh khỏi đà suy yếu tuần này dựa trên hàng tồn kho tăng và sức mua trong và ngoài nước suy yếu.  

Theo báo cáo mới nhất từ Metals Service Center Institute (MSCI), tồn kho thép cán dẹt Mỹ trong tháng 8 tăng 3% so với tháng trước đó trong khi các lô hàng vận chuyển ra thị trường cũng tăng 3%, gây áp lực lên giá thép. Tuy nhiên, sự kiện mua lại nhà máy Gallatin Steel của Nucor cũng như Severstal hoàn thành chuyển nhượng lại một nhà máy ở Bắc Mỹ có thể tạo hiệu ứng tích cực cho thị trường. Gía chào bán xuất xưởng HRC hiện vẫn phổ biến ở mức 660-670 USD/tấn.

Giá xuất khẩu phế Mỹ tới Đài Loan cũng giảm trước áp lực giá rẻ từ Trung Quốc. Gía phế giao dịch tới Đài Loan đạt mức 335 USD/tấn CFR Đài Loan trong tuần này, giảm 5-10 USD/tấn so với tuần trước.

Quyết định không chống bán phá giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ nhập khẩu tuần qua đã đi ngược lại với mong muốn tăng giá chào bán trong bán của các nhà máy Mỹ, tuy nhiên, nguồn cung tại Northeast và Midwest vẫn chặt đủ để hỗ trợ giá thép cây trong nước bình ổn tại mức 660 USD/tấn.

Châu Âu

Giá các mặt hàng thép dẹt EU đã cho thấy dấu hiệu phục hồi trong mấy tuần qua do sức mua đã phục hồi sau lễ và các nhà máy đang cố gắng tận dụng lợi thế tỷ giá suy yếu khiến giá nhập khẩu không cạnh tranh.

Nhiều nhà máy ở Bắc và Nam Âu đã thông báo tăng giá thép tấm. Các nguồn tin xác nhận giá giao dịch đã tăng 10-20 Euro/tấn kể từ khi giá xuống mức thấp trong tháng 7.

Tại Bắc Âu, giá chào bán HRC đạt  mức 430-440 Euro/tấn, trong khi một nhà máy Benelux cho biết giá xuất xưởng hiện tại là 425 Euro/tấn. Dù vậy, các mức giá mới này chưa được thị trường chấp nhận đầy đủ.

Giá chào thép tấm S275 cũng tăng  lên mức cao 520-530 USD/tấn đã tính phí giao hàng. Dù vậy, giá chào thép tấm dày nhập khẩu vẫn cạnh tranh tại mức 430 Euro/tấn CIF Châu Âu từ Trung Quốc và Ấn Độ.

Trong khi đó, thị trường thép cây không có mấy biến chuyển do người mua lo ngại giá sẽ suy yếu trong nửa tháng còn lại hoặc tháng tới. Sau khi tăng mạnh trong tháng 8, giá giao dịch thép cây cũng mắc kẹt tại mức 470 Euro/tấn giao tháng 9.

CIS

Cuộc nội chiến tại Ukraina đã làm sụt giảm nghiêm trọng nguồn cung phôi thanh CIS do các cơ sở sản xuất bị thiệt hại cũng như việc vận chuyển gặp khó khăn. Bù vào đó, nguồn cung thiếu hụt đã hỗ trợ giá phôi thanh CIS tăng trong mấy tuần gần đây dù hàng Trung Quốc vẫn tiếp tục giữ vững vị trí cạnh tranh nhất trên thị trường . Các nhà máy CIS đang cố gắng giữ giá trên mức 500 USD/tấn FOB Biển Đen.

Với sự ngưng sản xuất của các nhà máy ở Alchevsk, Ukraina, xuất khẩu phôi phiến CIS cũng  hoàn toàn nằm trong tay nước Nga. Đây dường như là lý do quan trọng nhất đằng sau nỗ lực tăng giá phôi phiến thêm 10-15 USD/tấn so với cách đây nửa tháng. Hiện tại,  họ đang chào bán phôi phiến sản xuất tháng 10-11 tới Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 510-515 USD/tấn CFR, tương đương mức 490-495 USD/tấn FOB Biển Đen.

Mặc dù áp lực đè nặng từ nguồn thép xuất khẩu giá rẻ và phong phú từ Trung Quốc, các nhà máy thép cây và cuộn trơn CIS vẫn không rời bỏ thị trường. Họ đang cố gắng tìm kiếm đơn hàng từ các thị trường chính của Trung Quốc, đặc biệt là các vùng lân cận gồm Nga, Đông Âu, Scandinavia và các bang Baltic.

Cách đây nửa tháng, giá cuộn trơn đã được giao dịch tại mức 540-550 USD/tấn và thép cây là 530-540 USD/tấn, tuy nhiên, hiện tại, các mức giá này không bền vững. ArceloMittal Kryviy Rih đã tăng giá chào thép cây và cuộn trơn lên mức 560 USD/tấn và 570 USD/tấn . Tuy nhiên, các nguồn tin cho rằng giá này không thực tế do giá phế và phôi thanh đang giảm xuống trong khi nhu cầu tiêu thụ thép dài suy yếu.

Nhật Bản

Nhà sản xuất thép cây lớn nhất của Nhật, Kyoei Steel, sẽ tăng thêm 3.000 Yên/tấn (28 USD/tấn) cho những hợp đồng thép cây tháng 10 ở trong nước do chi phí đầu vào gia tăng như giá phế, giá điện và nhiên liệu…. Giá trên thị trường hiện nay cho thép cây cỡ thường (16-25mm) ở Tokyo là khoảng 65.000-66.000 Yên/tấn (599-608 USD/tấn), giảm 5.000 Yên/tấn so với đầu năm nay, trong khi giá ở Osaka tầm 62.000-63.000 Yên/tấn, giảm 3.000 Yên/tấn từ đầu năm nay.

Trong khi đó, thị trường bán lẻ thép tấm dày loại thương phẩm của Nhật Bản đang bị quấy rối bởi một lượng hàng nhập khẩu ồ ạt. Giá trên thị trường hiện nay cho thép tấm loại SS dày 19mm (1.524 x 3.480mm) ở Tokyo vào khoảng 84.000-86.000 Yên/tấn (785-803 USD/tấn) trong khi thép tấm loại không phải thương phẩm (thép tấm không đạt thông số kỹ thuật của Tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản) cỡ 81.000-83.000 Yên/tấn. Giá của hai loại thép này đều không thay đổi nhiều kể từ cuối năm ngoái.

Ấn Độ

Giá HRC tại thị  trường nội địa Ấn Độ vẫn suy yếu trong tuần này giữa bối cảnh sức ép gia tăng từ HRC Trung Quốc với giá thấp hơn.

Giá giao dịch cho HRC loại IS 2062 A/B dày từ 3mm trở lên được thực hiện ở mức 34.500-35.500 rupees/tấn (565-597 USD/tấn) xuất xưởng, không đổi so với tuần trước. Mức giá này tương đương 526-555 USD/tấn CFR Mumbai (với thuế suất nhập khẩu 7.5%).

Chào giá  cho HRC loại thương phẩm SS400 dày từ 3mm trở lên xuất xứ Trung Quốc khoảng 515-520 USD/tấn CFR Mumbai (480-485 USD/tấn FOB Trung Quốc).

Đài Loan

Feng Hsin Iron & Steel đã giảm giá mua phế trong nước xuống 200 Đài tệ/tấn (7 USD/tấn) để phù hợp với giá phế toàn cầu thấp hơn, nhưng giá thép cây trong nước của công ty vẫn không đổi do nguồn cung hạn chế.

Giá thép cây đường kính chuẩn 13mm vẫn duy trì mức 17.900 Đài tệ/tấn (596 USD/tấn) xuất xưởng Đài Trung. Giá thép cây đã không đổi suốt 13 tuần liên tiếp.