Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Tổng quan thị trường thép thế giới tuần 34

Nhật Bản

Tuần này nhìn chung thị trường thép Nhật Bản theo chiều hướng tăng giá; vào đầu tuần là thông tin các nhà sản xuất thép tấm nâng giá chào bán với nhận định thị trường tiêu thụ trong thời gian tới sẽ có doanh số khả quan hơn rất nhiều, cụ thể là hôm 19/08 Tokyo Steel thông báo nâng giá niêm yết tấm dày và cuộn mạ kẽm nhúng nóng tháng 9  thêm 2.000 Yên/tấn (20 USD/tấn), theo đó sau điều chỉnh, giá tấm dày SS400 9-40 mm và HDG SGCC Z08 0.6mm đã tăng lên mức lần lượt  69.000 Yên/tấn (711 USD/tấn) và 82.000 Yên/tấn (837 USD/tấn). Ngoài ra, giá tấm cắt SS400 (1,524x3,048mm) 19mm đạt mức 80.000-82.000 Yên/tấn (816-837 USD/tấn), không đổi so với tháng trước. Đối với các mặt hàng tấm chất lượng thấp, giá chỉ đạt mức 76.000-78.000 Yên/tấn, tuy nhiên, cao hơn tháng trước 1.000-2.000 Yên/tấn.

Tại thị trường thép xây dựng hình H, các nhà phân phối và đại lý cũng bắt đầu tăng giá bán trong nước tháng 08 thêm 3.000 Yên/tấn (31 USD/tấn) sau thông báo tăng giá bán của phía nhà máy do nhận thấy nhu cầu tiêu thụ được cải thiện và hoạt động mua bán bắt đầu trở lại bình thường; cụ thể giá thép dầm hình H SS400 cỡ lớn lên mức 75.000 Yên/tấn (765 USD/tấn).

Củng trong tuần giá thu mua phế ferrit lần đầu tiên tăng lên 1.000-1.500 JPY/tấn (10-15 USD/tấn) sau nhiều tháng giá thu mua sụt giảm, theo đó giá thu mua phế H2 của Tokyo Steel tại khu vực Tahara là 32.000 JPY (327 USD/tấn), tăng 1.500 JPY/tấn; còn giá thu mua tại khu vực Utsunomiya là 33.000 JPY/tấn. Giá tăng là do nguyên nhân giá phế thế giới tăng và nguồn cung hạn chế. Bên cạnh đó giá thu mua phế H2 để xuất khẩu vẫn duy trì tại mức 32.500-32.800 JPY/tấn (331-335 USD/tấn) FAS vận chuyển tới vịnh Tokyo.

 

Hàn Quốc

Thị trường thép Hàn Quốc tuần này nhìn chung khá yên tĩnh ngoại trừ thông báo tăng gia bán lẻ HRC cho đơn hàng tháng 09 của Posco, thêm 30.000 Won/tấn (27 USD/tấn) theo sau động thái tăng giá bán tháng 08 thêm 20.000-40.000 Won/tấn từ cuối tháng 07 của Huyndai Steel và Dongbu Steel, với lí do giá nguyên liệu thô tăng và xu hướng giá cuộn cán nóng thế giới tăng. Tuy nhiên đáp lại động thái tăng giá của 3 nhà sản xuất trên, thị trường tỏ ra khá thờ ơ. Không một nhà sản xuất nào kể trên tiết lộ giá bán lẻ thự tế, ước tính giá bán lẻ đại lý cho SS400 dày 3mm sản xuất trong nước hiện vào khoảng 720.000 Won/tấn (641 USD/tấn)  tại thị trường bán lẻ. 

 

Đài Loan

Tuần này nhằm bù đắp chi phí phát sinh từ giá phế tăng cao cũng như nhận thấy nhu cầu tiêu thụ được cải thiện khiến Feng Hsin Iron & Steel và Hai Kwang Enterprise tăng giá thép cây nội địa thêm 300 Đài tệ/tấn (10 USD/tấn); cụ thể giá niêm yết thép cây cỡ cơ bản của Feng Hsin tăng lên mức 17.600 Đài tệ/tấn (588 USD/tấn) xuất xưởng Đài Trung còn giá mặt hàng này của Hai Kwang cũng tăng lên  mức 17.000 Đài tệ/tấn xuất xưởng Cao Hùng.

 

Đông Nam Á

Tuần này mặc dù các nhà máy ngoài nước đã chào bán HRC ở mức 550 USD/tấn cfr Việt Nam để tăng tốc bán hàng nhằm thu lợi nhuận nhanh hơn do lo ngại giá có thể giảm xuống; giá chào bán HRC SAE 1006B 2mm Trung Quốc cũng chỉ đạt mức 590-595 USD/tấn cfr Việt Nam, tuy nhiên, không có người hỏi mua,.

 

Ấn Độ

Tại Ấn Độ, thị trường HRC đang có nhiều biến động nhất định theo sau sự suy giảm của đồng nội tệ. Các nhà sản xuất cuộn cán nóng trong nước đang có ý định tăng giá cơ bản tháng 09 thêm 2.000 Rupee/tấn (30,7 USD/tấn) so với mức giá tháng 08 vì hàng nhập khẩu quá cao và giá nguyên liệu thô nhập khẩu tăng. Giá giao dịch cho cuộn cán nóng  IS 2062 A/B dày trên 3mm hiện phổ biến với giá bình quân 34.000-34.500 Rupee/tấn (522-530 USD/tấn), tăng 500 Rupee/tấn (7,7 USD/tấn) so với mức giá tháng 07; mặc dù từ đầu tháng, mức giá mà các nhà máy mong muốn đạt được lên tới 34.750-35.250 Rupee/tấn  (534-542 USD/tấn) xuất xưởng.

 

ThổNhĩ Kỳ

Giá mua phế liệu hiện nay của các nhà sản xuất vẫn duy trì như mức cũ từ đầu tháng 08 do lượng hàng dự trữ ở mức thấp vì họ đã giảm thu mua phế trong quý II, thêm vào đó thời điểm giữa tháng 07 lại xảy ra các cuộc đình công. Ngoài ra, nguồn cung phế từ Biển Đen cũng giảm do chi phí khá đắt trong thời gian qua.

Phế từ ô tô cũ (DKP) giao tới nhà máy hiện có giá 640-735 TRY/tấn (328-377 USD). Giá phế nấu chảy từ tàu cũ cũng duy trì ổn định từ đầu tháng 08 tại mức 375 USD/tấn gồm phí vận chuyển tới các nhà máy ở miền Tây Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên, với sự cải thiện của thị trường cũng như giá phế nhập khẩu tăng mạnh khi đồng nội tệ mất giá thì dự đoán giá phế có xu hướng tăng 5-10 USD/tấn trong những ngày tới.

Trong tuần này do sự trượt giá liên tục của đồng lira so với đôla Mỹ khiến giá thép nhập khẩu cũng như hàng trong nước bị đẩy lên cao. Cụ thể, giá phế HMS 1&2 (80:20) nhập từ Mỹ tăng 385 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ vào cuối tuần trước. Đến đầu tuần này, nhà máy Icdas đã nâng giá thép cây và cuộn trơn ở thị trường trong nước thêm 15 TRY/tấn. Nhà máy này cũng đã nâng giá cuộn trơn lên khoảng 1.400-1.465 TRY/tấn xuất xưởng (716-749 USD), gồm VAT 18%. Sang đến thứ Tư, Kardemir nâng giá bán ở thị trường trong nước đối với thép thanh tròn và thép cây lên thêm lần lượt là 11 TRY/tấn và 9 TRY/tấn nhằm bù đắp tổn thất khi đồng nội tệ bị mất giá. Thép tấm cũng tăng thêm 10 USD/tấn. Nếu tính theo ngoại tệ thì giá xuất khẩu thép cây sang khu vực Trung Đông, Bắc Phi đã mất 8 USD/tấn chỉ còn 590 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ.

Trong khi đó, thị trường thép cuộn cán nóng trong nước được phao “cứu cánh” do khách hàng có nhu cầu tái bổ sung hàng tồn giúp giữ giá HRC xuất xưởng vẫn dao động quanh mức 600-610 USD/tấn. HRC xuất khẩu có giá 560-585 USD/tấn FOB.

Mỹ

Tấm mỏng vẫn đang duy trì đà ổn định với mức giá xuất xưởng hiện nay của HRC và CRC lần lượt là 660-670 USD/tấn ngắn và 765-775 USD/tấn ngắn. Đa số ý kiến đều cho rằng giá sẽ sớm giảm thôi vì hiện nay không được sự hỗ trợ của lực cầu để hậu thuẫn cho giá duy trì ở mức này, người mua đang trong tâm trạng chờ đợi chỉ mua cầm chừng chứ không có nhu cầu dự trữ. Tuy nhiên, dự đoán giá sẽ tăng trong quý IV do nguồn cung hạn chế khi một số lò nung tạm ngưng hoạt động. Ngoài ra, nhu cầu tiêu thụ sẽ được cải thiện đáng kể trong tháng 09 và tháng 10 như mọi năm.

Thép tấm tăng thêm 30 USD/tấn ngắn lên 710-730 USD/tấn ngắn xuất xưởng khi thời gian giao hàng kéo dài đến tận tháng 10 nhưng đang vấp phải rào cản từ những người tiêu dùng khi họ vẫn chưa sẵn sàng giao dịch với mức giá tăng mới.

Thép thanh thương phẩm được dự đoán sẽ vẫn duy trì ổn định với giá 753 USD/tấn ngắn xuất xưởng như trong thời gian qua do nhu cầu tiêu thụ chậm. Nhưng trong những tháng cuối năm giá sẽ tăng khi các nhà máy đang cắt giảm công suất hoạt động nên nguồn cung sẽ hạn chế. Giá thép cây giảm từ 540-560 USD/tấn ngắn CIF Houston xuống còn 545-555 USD/tấn ngắn CIF Houston.

 

CIS

Từ giữa tháng 07, giá thép cuộn cán nóng xuất khẩu của CIS sang Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng 20-30 lên 540-550 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ USD/tấn và duy trì cho đến tuần này, trong khi giá tại Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm 5-10 USD/tấn xuống còn 600-610 USD/tấn xuất xưởng, kèm theo đó là khoản chiết khấu cho các đơn hàng lớn khiến cho HRC nhập khẩu khó cạnh tranh lại với hàng trong nước nên lượng HRC nhập khẩu rất khiêm tốn.

Thép tấm giao tháng 10 từ CIS sang Thổ Nhĩ Kỳ cũng đã tăng 10 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ. Thép tấm khổ rộng 1.500mm, dày 4-12mm giao tháng 10 của Ukraina là 550 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ; còn giá của Nga cao hơn mức này 10-15 USD/tấn.

Cuộn trơn dạng lưới 5.5-12.5mm sản xuất tháng 09 xuất khẩu tăng từ 585-595 USD/tấn FOB Biển Đen lên 598-600 USD/tấn FOB Biển Đen, nhưng chưa có nhiều giao dịch được thực hiện ở mức giá mới này.

Tuy nhiên, giá phôi thanh xuất khẩu từ Biển Đen lại giảm nhẹ 1,5 USD/tấn xuống còn 515 USD/tấn FOB Biển Đen. Do ảnh hưởng của các cuộc bạo động chính trị tại Ai Cập làm nhu cầu nhập khẩu giảm đáng kể.

 

Châu Âu

Trong tuần này, thị trường giao dịch tại Bắc Âu có phần cải thiện hơn ở Nam Âu. Mặc dù thị trường vẫn khá trầm lắng nhưng đầu tuần này ArcelorMittal đã thông báo tăng giá cơ bản thêm 20 EUR/tấn lên 150 EUR/tấn và giá giao thực tế lên thêm 30 EUR/tấn đối với thép thanh thương phẩm. Thép hình loại 1 có mức giá mới khoảng 560 EUR/tấn gồm phí vận chuyển. Thép cây tăng lên 510-520 EUR/tấn gồm phí vận chuyển đến người mua do chi phí đầu vào tăng cũng như mức giá thấp trước đây đã duy trì trong một thời gian khá lâu. HRC dao động quanh mức 460-470 EUR/tấn cơ bản xuất xưởng. Giá CRC sản xuất tháng 10 lên 530 EUR/tấn CPT.

Còn tấm dày vẫn giữ giá ổn định quanh mức 500 EUR/tấn xuất xưởng nhưng kỳ vọng giá sẽ tăng trong vài tuần tới do niềm tin thị trường đã cải thiện cũng như những người tiêu dùng trực tiếp đã bắt đầu chấp nhận giao dịch với giá cao hơn.

Gần đây giá tấm dày nhập khẩu cũng có xu hướng tăng. Cụ thể giá nhập khẩu từ Ấn Độ khoảng 520-530 USD/tấn FOB (390-397 EUR/tấn); Trung Quốc có giá 550 USD/tấn FOB (412 EUR/tấn); từ Ukraina là 540-550 USD/tấn FOB Biển Đen và 590-610 USD/tấn (442-457 EUR/tấn) DAF biên giới Ba Lan.