Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Tổng quan thị trường thép thế giới tuần 16

Tổng quan thị trường thép thế giới tuần 16

Thị trường thép thế giới trong tuần này vẫn chưa thể cởi bỏ màu áo ảm đạm đã được khoác lên từ mấy tuần trước.

Trong khi chưa có biện pháp nào hửu hiệu điều trị lạm phát để rồi vàng và dầu lửu liên tiếp lập những kỷ lục mới trong lịch sử, thì giá thép trên thế giới tăng giảm thất thường ở mỗi nơi và khó có thể sắp xếp thành một trật tự nhất định.

Tuy nhiên, thị trường thép Châu Á vẫn được coi là có những diễn biến khó chịu nhất vì cực kỳ lộn xộn ở mỗi quốc gia, mỗi khu vực.

Nếu như các nhà sản xuất Trung Quốc lần được đưa ra quyết định điều chỉnh giảm giá thép tháng 05 vì cho rằng nhu cầu cải thiện không nhiều thì nhà sản xuất Posco-Hàn Quốc đã mạnh tay dáng thêm 147 USD/tấn cho giá mới tại thị trường nội địa.

Trong khi đó, các nhà sản xuất Nhật Bản lại quyết định giữ nguyên giá bán tại thị trường trong nước vì nền kinh tế chưa ổn định.

Nhu cầu thấp và giá thép ở mỗi nơi theo một xu hướng khác nhau khiến cho các nhà xuất khẩu cũng như nhập khẩu khó có thể xác định hướng đi cho riêng mình.

Tại Châu Âu, xu hướng rỏ ràng hơn nhiều nhưng không làm hài lòng các nhà sản xuất nội địa vì họ đang ở thế “tiến thoái lưởng nan”. Trước sức ép của đồng EUR tăng mạnh và nhu cầu suy yếu, khả năng giá thép lên là điều không thể nhưng chi phí nguyên liệu thô đang ở mức cao nên các nhà sản xuất nội địa đành ngậm ngùi tạm xa khách hàng để cứu giá.

Châu Á

Với tình hình không khả quan tại thị trường nội đia, hầu hết các nhà sản xuất Châu Á đều tất bật chọn lựa những thị trường xuất khẩu phù hợp nhằm giảm áp lực hàng tồn trong nước.

Tuy nhiên, do hầu hết các nhà xuất khẩu đều đổ xô sang thị trường Brazin thay vì sang Mỹ nên giá thép dẹt tại đây cũng đã suy yếu trong tuần này.

HRC giao tháng 07 từ Châu Á sang Brazin hiện giảm xuống còn 720-740 USD/tấn fob từ mức giá tháng trước là 750-760 USD/tấn.

CRC Trung Quốc chào bán sang Brazil cũng đà hồi về mức 800-815 USD/tấn fob từ mức giá đầu tháng 04 là 835-850 USD/tấn fob. Giá chào bán thép cuộn mạ kẽm nhúng nóng HDG cũng được Trung Quốc chào bán sang nước này với giá 815-840 USD/tấn.

Đông Nam Á

Tuần này, thị trường thép Đông Nam Á vẫn chưa thể đem lại niềm vui cho các nhà sản xuất cũng như giới thương nhân khi nhu cầu ngày một đi xuống mặc dù đã cận kề mùa cao điểm.

Thị trường HRC nhập khẩu vẫn giữ nguyên trạng thái trầm lắng vốn có từ mấy tuần trước đây.

Tại Việt Nam, chính sách tiền tệ của chính phủ cộng với đồng nội tệ suy yếu đã tác động xấu đến lực mua trên thị trường thép.

Tuần trước, HRC SAE1006 có chứa boron được Trung Quốc chào bán sang Việt Nam với giá 750 USD/tấn cfr, tuy nhiên nhà cung cấp này vẫn chưa đưa ra giá chào mới trong tuần này vì có thể họ sẽ đẩy giá chào lên cao hơn.

Tuần này, Việt Nam cũng đã nhận được các giá chào HRC2mm SAE1006 từ Đài Loan và Hàn Quốc ở khoảng 780-790 USD/tấn cfr. Hiện Hàn Quốc đang chào bán thép loại trên giao tháng 05 với giá 770 USD/tấn cfr, tuy nhiên thị trường Việt Nam chưa có dấu hiệu cải thiện.

SS400B từ Trung Quốc hiện có giá 710 USD/tấn cfr, còn giá chào nội địa là 730-740 USD/tấn cfr.

HRC từ Nga tuần này cũng chào bán sang Việt Nam với giá 725-735 USD/tấn cfr.

Tại Indonesia, do người mua chưa gia nhập thị trường nên mặc dù Hàn Quốc tuần này đã giảm giá chào HRC 1.8mm xuống còn 800 USD/tấn cfr từ mức giá tháng trước là 810 USD/tấn cfr, nhưng vẫn không hấp dẫn người mua vì khách hàng cho rằng giá sẽ còn giảm nữa, có thể là về mức 700 USD/tấn fob.

Ngay cả sản phẩm từ nhà cung cấp uy tín như Nhật cũng phải hạ giá chào bán HRC 2 mm sang Indonesia xuống còn 830-840 USD/tấn cfr từ mức giá tháng trước là 860 USD/tấn.

Tương tự, Singapore cũng không khả quan hơn và tiếp tục duy trì xu hướng giảm. Giá thép tấm cán nóng có chứa boron của Trung Quốc  tuần trước được các thương nhân nước này đặt mua với giá 735-740 USD/tấn cfr từ mức giá trước đó là 735-740 USD/tấn cfr.

Tại Thái Lan, HRC 3-12mm tiêu chuẩn thương phẩm từ Hàn Quốc tuần này có giá bán là 740 USD/tấn cfr.

Hàn Quốc

Đi ngược lại quyết định hạ giá thép tháng 05 của các nhà sản xuất Trung Quốc, nhà sản xuất thép hàng đầu Hàn Quốc hôm thứ 03 tuần này đã quyết định nâng giá nội địa đối với thép carbon thêm khoảng 14,2-18,6%.

Kể từ ngày 22/04 tất cả các sản phẩm ngoại trừ phôi tấm sẽ có giá đắt hơn 160.000 Won/tấn (147 USD/tấn). HRC cán lại của nhà sản xuất này có giá mới là 1,06 triệu Won/tấn (970 USD/tấn), còn thép tấm Silicon khảm hạt sẽ có giá là 1,22 triệu Won/tấn (1.117 USD/tấn).

Tuy nhiên, cho đến thời điểm này sức ảnh hưởng từ quyết định tăng giá của Posco lên thị trường không mạnh lắm. Nhu cầu thép tại Hàn Quốc trong tuần này vẫn chưa cải thiện. Thị trường thép xây dựng duy trì tình trạng ế ẩm, chỉ vài ba giao dịch lẻ tẻ vì không có lực mua.

Tuần này, Trung Quốc cũng đã hạ giá chào bán thép cây giao tháng 05 hoặc tháng 06 sang Hàn Quốc khoảng 15 USD/tấn xuống còn 665 USD/tấn cfr từ mức giá trước đó là 680 USD/tấn.

Mặc dù giá chào xuất khẩu HRC 3-12mm có chứa boron tiêu chuẩn thương phẩm của Trung Quốc tăng 10-15 USD/tấn lên mức 700-710 USD/tấn fob (720-730 USD/tấn cfr), tuy nhiên đà tăng này vẫn còn là một thách thức lớn cho các nhà cung cấp vì nhu cầu tại thị trường Hàn Quốc còn khá yếu.

Không được nhu cầu hỗ trợ thì cho dù các nhà sản xuất khác có theo sau xu hướng của Posco đi nữa, vẫn khó có thể được khách hàng chấp nhận.

Do giá Niken của LME tăng trở lại với mức 12 USD/pound, POSCO (Hàn Quốc)tuần này đã tạm ngưng giao dịch với giá 3.650 USD/tấn C&F cho các sản phẩm thép cuộn/thép tấm không gỉ cán nguội có chứa Niken tại thị trường châu Á và dự định chào ở mức 3,850 USD khi trở lại thị trường.

Đài Loan

Do ảnh hưởng từ sự tăng giá của đồng Đài tệ cộng với những ảnh hưởng chưa rỏ ràng từ trận động đất ở Nhật trong tháng 03 rồi, China Steel Corp (CSC), nhà sản xuất thép lớn nhất Đài Loan quyết định sẽ giữ nguyên giá thép tháng 06 không đổi và chỉ tăng giá đối với thép cuộn mạ kẽm mạ điện thêm 800 Đài tệ/tấn (28 USD/tấn).

Như vậy, HRC tiêu chuẩn SPHC và CRC tiêu chuẩn SPCC sẽ vẫn ở mức lần lượt là 24.478 Đài tệ/tấn (843 USD/tấn) và 28.127 Đài tệ/tấn (969 USD/tấn).

Tuần này, nhu cầu thép thanh vằn tại Đài Loan có dấu hiệu ấm lên sau khi các nhà sản xuất nước này quyết định điều chỉnh giá bán xuống mức 19.500 Đài tệ/tấn nhằm hút lực mua. Tuy nhiên, khả năng giá sẽ phục hồi mức 19,800 Đài tệ/tấn trong những ngày tới do phế từ Mỹ và Nhật sẽ tăng cao.

Ngoài ra, giá xuất khẩu thép cán nguội không gỉ của nước này sang Châu Á dự đoán cũng sẽ tăng lên 3,850 USD/tấn từ mức giá 3.650 USD/tấn C&F trong những ngày gần đây do giá Niken tại sàn giao dịch LME đã phục hồi 12 USD/pound.

Ấn Độ

Do nhu cầu cải thiện đôi chút và lợi nhuận biên đang xuống thấp nên các nhà sản xuất hàng thứ cấp Ấn Độ quyết định nâng giá cơ bản đối với thép cây nhiệt hóa học (TMT) thêm 500-700 Rs/tấn (11-15 USD/tấn) trong 02 tuần qua.

Hiện thép cây TMT10-12mm với giá 34.500-36.000 Rs/tấn (775-809 USD/tấn) xuất xưởng, chưa bao gồm thuế VAT và các loại thuế khác.

Hôm 01/04, nhà sản xuất thép trực thuộc nhà nước- Rashtriya Ispat Nigam Limited cũng đã nâng giá thép cây thêm 700 Rs/tấn hôm 01/04 rồi. Hiện thép cây 8mm của nhà sản xuất này có giá bán tại Visakhapatnam thuộc bang Andhra Pradesh ở phía nam Ấn Độ là 43.550 Rs/tấn, bao gồm thuế tiêu thụ đặc biệt 10,3% nhưng chưa gồm thuế VAT.

Steel Authority of India Ltd (Sail), nhà sản xuất thép khác cũng trực thuộc nhà nước quyết định giữ nguyên giá thép cây tháng 04. Hiện thép cây 10mm có giá cơ bản là 38.000 Rs/tấn, còn thép cây 12 mm thì có giá 37.600 Rs/tấn.

Tuần này, Ấn Độ cũng đã nâng giá thu mua phế do nhu cầu cải thiện. giá phế tháo dỡ từ container xuất qua cảng Nhava Sheva, Ấn Độ tiến sát mức 497 USD/tấn cfr, tăng 0,8% so với tuần trước nhưng giảm 04 USD/tấn so với tháng trước.

Nhật Bản

 

Các dự án xây dựng công cộng bị hủy bỏ hoặc tạm ngưng để ưu tiến cho ông cuộc tái thiết đất nước. Quyết định này của chính phủ Nhật Bản đã ảnh hưởng khá nhiều lên thị trường thép nước này trong những ngày qua vì niềm tin về triển vọng nhu cầu suy yếu. Hơn nữa nền kinh tế Nhật chưa thật sự đi vào nề nếp kể từ sau trận động đất xảy ra hôm 11/03.

Trước tình hình đó, Tokyo Steel quyết định giữ nguyên giá thép tháng 05. Hiện HRC 1.7-22mm của nhà sản xuất này vẫn ở mức giá 72.000 Yên/tấn (867 USD/tấn), nếu vận chuyển bằng đường bộ, còn thép cây 16-25mm có giá không đổi 64.000 Yên/tấn (771 USD/tấn).

Bên cạnh đó, Nhật cũng nhận được các giá chào bán HRC giao tháng 06 từ Angang- Trung Quốc không đổi. Giá HRC 1.6-22mm tiêu chuẩn hàng hóa giao tháng 04 tuần này vẫn giữ ở mức 850 USD/tấn cfr, tương đương 860-865 USD/tấn (70.520-70.930 Yen/tấn), gồm phí giao hàng.

giá HRC 1.6-22mm tiêu chuẩn hàng hóa giao tháng 04 xuất sang Nhật vẫn giữ ở mức 850 USD/tấn cfr, tương đương 860-865 USD/tấn (70.520-70.930 Yen/tấn), gồm phí giao hàng.

Tuy nhiên khách hàng Nhật vẫn chuộng thép sản xuất trong nước vì các giá chào từ nước ngoài cũng không chênh lệch nhiều so với giá bán của các nhà sản xuất trong nước.

Tokyo Steel cũng giữ giá thép không đổi cho các hợp đồng tháng 05 tại thị trường nội địa. HRC dày 1.6-22mm vẫn ở mức 72.000 Yen/tấn (878 USD/tấn).

Châu Âu

Tuần này, thị trường thép Châu Âu vẫn theo diễn biến đi xuống. Nhu cầu ở một số nơi đã cải thiện, nhưng đa phần đang trong trạng thái chưa phục hồi.

Hơn nữa, đồng EUR tăng mạnh khiến cho xuất khẩu khó khăn, còn nhập khẩu vẫn đang đe dọa đến hàng nội địa.

Thép cây: trong tháng 03 và tháng 04 này, giá thép cây tại Đức và Bỉ đã mất khoảng 20-35 EUR/tấn. các nhà sản xuất Đức hiện đang bán thép cây với giá 540 EUR/tấn (779 USD/tấn).

Tại Pháp, giá thép cây cũng đã giảm 10 EUR/tấn trong mấy tuần nay và hiện thép cây đường kính 12 mm phục hồi lên mức 540 EIRR/tấn, đã bao gồm phí vận chuyển. tương tự, thép cây tại Scandinavia cũng giảm xuống còn 560-570 EUR/tấn, đã bao gồm phí vận chuyển.

Ngoài ra, giá phế liệu đang theo chiều hướng xuống cũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu lèo lái giá thép cây Nam Âu đi xuống 15-20 EUR/tấn trong những tuần qua.

Tuy nhiên Thổ Nhĩ Kỳ là nước hưởng lợi từ tỷ giá và đang thống trị thị trường thép dài Bắc Phi hơn thường lệ, nhưng lại hạn chế  xuất khẩu thép sang Algeria vì phải chịu thuế nhập khẩu từ nước này và hiện Tây Ban Nha và Italia là nước thế chân.

Giá thép cây hiện  đang ở khoảng 495-500 EUR/tấn fob, nhưng Hy Lạp có giá thấp hơn chút xíu, ở mức 490 EUR/tấn fob.

Tại Algeria, thị trường cuộn trơn đang được giao dịch tốt hơn so với thép cây. Thép cuộn kéo lưới hiện có giá là 515-525 EUR/tấn, còn thép cuộn dạng kéo dây thì có giá 560 EUR/tấn.

Libya đã rút khỏi thị trường vì sự bất ổn vẫn tiếp diễn. Tại Morocco, thị trường khá trầm lắng, các nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ hiện đang bán phôi sang nước này với giá 640-650 USD/tấn cif.

Tại Tunisia, giá thép cây từ đầu tháng 04 đã tăng lên khoảng 10% đã hỗ trợ cho các nhà cán lại những người đang chịu áp lực từ giá phôi quốc tế đang ở mức cao. Trước đó, sự tăng giá cũng đã đẩy giá thép cây giao ngay tại Tunisia tăng lên 700 USD/tấn.

Trong khi đó, các nhà xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ hiện đang bán thép cây sang Ai Cập với giá 650-660 USD/tấn (450-457 EUR/tấn).

Thép cuộn: Nhu cầu suy yếu cộng với sự biến động tiền tệ đã lèo lái giá thép cuộn Nam Âu giảm 60-70 EUR/tấn hơn 01 tháng qua.

Trong đó Thổ Nhĩ Kỳ và Trung Quốc vẫn được cho là hai đối thủ cạnh tranh mạnh nhất của các nhà sản xuất Nam Âu.

HRC giao tháng 06 của Thổ Nhĩ Kỳ hiện chỉ có giá 525-535 EUR/tấn (746-760 USD/tấn) cif, còn HRC từ Trung Quốc thì có giá 550-560 EUR/tấn cif, nhưng sẽ không giao hàng cho đến cuối tháng 08.

HRC nội địa giao tháng 06 tuần có giá 570-580 EUR/tấn xuất xưởng, CRC cũng bị kéo về mức 640-650 EUR/tấn xuất xưởng.

CRC Thổ Nhĩ Kỳ hiện đang được chào bán ở mức khoảng 630 EUR/tấn cif, còn giá  chào từ Trung Quốc là 620 EUR/tấn cif.

HRC của Ukaraina, Nga và Ấn Độ đang được chào bán sang khu vực này với giá 550-560 EUR/tấn (786-801 USD/tấn).

CIS

Thị trường xuất khẩu thép CIS tuần này không có gì thay đổi so với tuần trước, vẫn ngắc ngoải với các giá chào bán xuống thấp. Tuy nhiên,xu hướng giá xuất khẩu thép cuộn CIS trong tháng tới vẫn chưa rỏ ràng vì nhưng yếu tố tác động giá lên-xuống vẫn đan xen lẫn nhau. Nhu cầu được dự báo sẽ cải thiện trong thời gian tới nhưng nguyên liệu thô không tăng mạnh nên khó có thể hỗ trợ đẩy giá thép cuộn lên.

Hơn nữa, hiện nhu cầu chỉ đến từ Mỹ, Mỹ Latin và Châu Âu, còn Trung Đông vẫn chưa sẳn sàng nhập cuộc vì bất ổn chính trị gaayra nhiều rủi ro trong kinh doanh.

Thép cuộn Ukraina hiện đang được bán sang Biển Azov với giá dưới mức 640 USD/tấn, còn sang Biển Đen là 660 USD/tấn fob. Tuy nhiên các mức giá chào sang Biển Đen không được khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ chấp nhận khi chào sang nước này.

Tuy các sản phẩm thép khác hướng theo chiều giảm nhưng cuộn trơn có dấu hiệu ổn định hơn vì nguồn cung trong tình trạng hạn hẹp. Các loại nguyên liệu cơ bản giao tháng năm được hai nhà xuất khẩu này bán sang Biển Đen với giá 690-710 USD/tấn fob, giá bán sang khu vực trung và đông Âu là 705 USD/tấn và 485 EUR/tấn.

Đối với phôi thép, tuần này tiếp tục giảm nhẹxuống còn 600 USD/tấn (419 EUR/tấn), nhưng khả năng giá sẽ không giảm thêm nữa vì các hợp đồng giao tháng 05 đã được bán hết và chuẩn bị bước sang các hợp đồng ký mua tháng 06.