Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Tổng quan thép thế giới tuần 42/2018

Ấn Độ

HRC: Giá giao ngay của thép cuộn cán nóng trong nước nhìn chung vẫn ổn định trong tuần, với nhu cầu cao trong nước đang hỗ trợ khá mạnh cho giá tăng. Tuy nhiên, người mua đã dẫn lý do siết chặt thanh khoản trên thị trường, với một vài ngân hàng Ấn Độ - nhất là những ngân hàng trong lĩnh vực công – đang xem xét kỹ lưỡng các giao dịch thương mại một cách gắt gao hơn, hạn chế tín dụng, giải ngân cho các khoản bảo lãnh ngân hàng ít hơn, cũng như đòi một bảng kế toán sạch sẽ và một lịch sử thư tín dụng không tì vết. Điều này sẽ dẫn đến áp lực về khối lượng trong những tuần tới.

Platts định giá HRC IS2062 dày 2.5-10 mm được giao đến Mumbai với giá 4.700 Rupee/tấn (646,39 USD/tấn), không thay đổi so với tuần trước. Định giá này không bao gồm thuế hàng hóa và dịch vụ GST 18%.

Nhu cầu vẫn ổn định trong bối cảnh sắp diễn ra lễ hội Navratri (lễ hội 9 đêm) vào ngày 19 tháng 10 và Durga Puja. Thị trường được dự báo ​​sẽ thực sự trở nên lạc quan sau lễ Diwali, rơi vào ngày 6 tháng 11 năm 2018.

Nhật Bản

Thép dầm hình H: Tập đoàn Nippon Steel & Sumitomo Metal sẽ giữ giá thép dầm hình H trong nước cho các hợp đồng tháng 10 không thay đổi so với tháng 9 vì hãng đang đợi cho mức tăng trước đó được thị trường chấp nhận hoàn toàn. Lần cuối cùng công ty nâng giá giao ngay lên thêm 3.000 Yên/tấn là cho các hợp đồng tháng 6 và đã giữ giá ở mức này kể từ đó. Nhu cầu thép dầm hình H đang tăng lên do quý hiện nay là giai đoạn có nhu cầu cao theo mùa.

 

NSSMC không công bố giá niêm yết của mình. Giá thị trường hiện tại của thép dầm hình H cỡ lớn ở Tokyo là khoảng 87.000-88.000 Yên/tấn (777- 786 USD/tấn), tăng 1.000 Yên/tấn so với tháng 9.

Thổ Nhĩ Kỳ

Phế: Một thỏa thuận với một thương gia Baltic đã phá vỡ sự im lặng trong một tuần yên tĩnh trong thị trường nhập khẩu phế Thổ Nhĩ Kỳ, với các nhà máy chủ yếu hầu không tham gia.

Thương nhân gốc Baltic đã bán một lô hàng cho một nhà máy có trụ sở tại Marmara, bao gồm 22.500 tấn HMS 1/2 (80:20) với giá 328 USD/tấn, 1.500 tấn phế vụn với giá 333 USD/tấn, 4.000 tấn bonus có giá 338 USD/tấn và 8.000 tấn busheling với giá 338 USD/tấn. Thỏa thuận này đã được người mua xác nhận. Giao dịch này là giao dịch được báo cáo đầu tiên trong tuần này, cung cấp giá chính xác hơn cho những người tham gia thị trường và xác nhận một thị trường ổn định với ít thay đổi cơ bản được thấy từ đầu tuần.

Trước đó giá mua của các nhà máy đã không cao hơn 325 USD/tấn CFR cho HMS 1/2 (80:20). Tuy nhiên, rất ít nhà máy đã được nghe nói là đang tích cực hỏi mua hàng, với hai nguồn tin mua của nhà máy ở Iskenderun cho biết họ sẽ gia nhập thị trường chỉ trong tuần tới. Ngoài ra, lira mạnh lên đã khiến một số người tham gia thị trường vẫn còn trong một chế độ chờ đợi và quan sát trước khi bắt đầu đàm phán của họ.

Trong khi đó các nguồn công nghiệp hiện vẫn chưa nhất trí được xu hướng giá. Trong khi đa số vẫn kỳ vọng giá ổn định với áp lực giá của các nhà máy được cân bằng bởi nguồn cung phế thắt chặt hơn, một số nguồn tin bên mua và bên bán dự đoán rằng cung phế siết chặt trong mùa đông sẽ làm tăng giá. Tuy nhiên, không có sự hồi phục về giá thép thành phẩm quanh mức và dưới 500 USD/tấn, mức sử dụng công suất thấp hơn tại các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ - như đã được một số nhà sản xuất công bố như một phương sách cuối cùng – có thể khiên cho giá giảm.

Tại thị trường nội địa, một số nhà sản xuất thép lớn của Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm giá mua phế auto bundle (DKP) trong những ngày gần đây, trong bối cảnh giá lira tăng liên tục so với đồng đô la. Tuy nhiên, giá mua phế nội địa mới của các nhà máy vẫn còn mạnh, tương tự với giá phế nhập khẩu, mặc dù giá thành phẩm thấp hơn do nhu cầu thấp.Giá mua DKP  của Asil Celik, giảm xuống mức 1.990 lira/tấn (349 đô la/tấn), trong khi Colakoglu, cũng giảm giá mua phế trong nước còn 1.990 lira/tấn (349 USD/tấn). Tại nhà máy Eregli, giá mua phế DKP giảm khoảng 40 Lira/tấn xuống 2.010 lira/tấn (353 đô la/tấn). Nhà máy Iskenderun cũng giảm giá mua phế DKP trong nước là 75 Lira/tấn tính đến ngày 16 tháng 10 xuống 1.980 Lira/tấn (347 USD/tấn). Kardemir mua phế DKP từ thị trường nội địa tại mức giá 1.970 Lira/tấn (345 USD / tấn).

Thép dài: Một số nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục cắt giảm giá thép cây, trong bối cảnh giá lira tăng có so với đồng đô la Mỹ, cùng với nhu cầu tiếp tục chậm. Tuy nhiên, giá cả tương đối ổn định theo đồng USD. Tin tức nói rằng Mỹ có thể giảm thuế nhập khẩu thép từ Thổ Nhĩ Kỳ xuống còn 25%, nâng cao kỳ vọng hồi phục giá giữa những người tham gia thị trường Thổ Nhĩ Kỳ. Sự phát triển này có thể đặt một mức sàn lên xu hướng giảm sâu hơn nữa trong giá cả của thép dài Thổ Nhĩ Kỳ, bằng cách mở cửa lại thị trường Mỹ cho các nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ. Tỷ giá hối đoái ổn định hơn và giá phế mạnh là những yếu tố khác để hỗ trợ định giá thép cây trong những tuần tới.

Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ chào giá ổn định từ 505 USD/tấn đến 510 USD/tấn FOB. Một giao dịch chưa được xác nhận đã được nghe thấy từ một nhà máy tại Iskenderun đến Anh với 10.000 tấn ở mức 495 USD/tấn FOB. Những người tham gia thị trường báo cáo giá trị có thể giao dịch ở mức 495 USD/tấn FOB cho 10.000 tấn thép cây, trong khi đối với thép cây nhỏ hơn của 2.000-4.000 tấn giá đạt được ở mức 499 USD/tấn FOB.

Tại thị trường trong nước một số nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ và các nhà tích trữ tiếp tục cắt giảm giá thép cây nội địa, trong bối cảnh lira tăng so với đồng đô la Mỹ, và nhu cầu liên tục chậm chạp. Giá thép cây ở một số khu vực của Thổ Nhĩ Kỳ giảm còn 3350-3400 Lira/tấn tương đương 491-500 USD/tấn xuất xưởng, trong khi các nhà máy ở khu vực Istanbul cố gắng duy trì giá niêm yết trên 505 USD/tấn xuất xưởng, trong bối cảnh giá phế nhập khẩu và trong nước mạnh mẽ.

Icdas đã giảm giá thép cây 12mm-32mm lần thứ ba trong tuần này với mức giảm đáng kể 125 Lira/tấn còn 2.775 Lira/tấn xuất xưởng Biga, tương đương 500 USD/tấn, chưa bao gồm 18% VAT. Icdas cũng giảm giá thép cây có đường kính 10mm còn 2.785 Lira/tấn, trong khi thép cây 8mm giảm xuống mức 2.700 Lira/tấn. Giá niêm yết của cuộn trơn đường kính 7.0mm-8.5mm của công ty giảm xuống mức kỷ lục là 2.945-2.975 Lira/tấn xuất xưởng hôm thứ Năm, tương ứng với 530-535 USD/tấn xuất xưởng, tương ứng.

Izmir Demir Celik (IDC) cũng điều chỉnh giảm giá thép cây, trong bối cảnh giá Lira tăng liên tục. IDC thiết lập giá niêm yết với thép cây có đường kính 12-32 mm là 3.275 Lira/tấn, bao gồm 18% VAT, tương đương 500 USD/tấn chưa bao gồm VAT.

Mỹ

Tấm mỏng: Thị trường thép cuộn dẹt của Mỹ vẫn không rõ ràng do giá tăng trong tuần qua đã không thúc đẩy nhiều hoạt động và gặp khó khăn để có được lực kéo. Không có nhiều hoạt động hoặc báo giá trong tuần, một nguồn tin nhận xét. Mức tăng 40 USD/st trong tuần trước của tấm mỏng Mỹ đã nhận được sự quan tâm hờ hững trên thị trường khi lượng mua vẫn còn hạn chế. Sự tăng giá của hầu hết các nhà máy trong nước đã không đẩy chào giá dây cán nóng ngoài phạm vi có thể giao dịch là 820-840 USD/st. CRC và HDG ở mức chênh lệch tăng 100-115 USD/st so với giá HRC hiện hành. Thời gian giao hàng HRC trung bình hàng tuần tăng 0,2 tuần lên 4,4 tuần. Thời gian giao hàng trung bình của CRC vẫn không đổi ở mức 5,5 tuần trong khi thời gian giao hàng HDG là 5,8 tuần.

CIS

Thép cuộn: Giá thép cuộn CIS đã giảm trong tuần này do nhu cầu yếu hơn và kỳ vọng của người mua về việc giảm giá hơn nữa từ người bán. Một số giá chào bán được nghe nói trong tuần này ổn định so với tuần trước nhưng phần lớn đã bị người mua từ chối. Báo giá cho cuộn cán nóng đã được nghe khoảng 515 USD/tấn FOB Biển Đen/Biển Azov cho cuộn lớn. Cuộn nhỏ ở mức 510 USD/tấn FOB Biển Đen. Không có mối quan tâm mua nào vì người mua mong muốn giá phải ở mức 500 USD/tấn FOB.

Phôi: Các nhà máy của CIS đang chịu áp lực để chấp nhận mức giá thấp hơn để chốt được nhiều giao dịch hơn nữa cho tháng 11 trong bối cảnh nhu cầu sụt giảm tại các thị trường trọng điểm, bao gồm Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập và châu Á. Ví dụ, người mua ở Ai Cập đang tìm kiếm các giao dịch phôi mới với giá 450-455 USD/tấn FOB Biển Đen, được coi là phạm vi giá khả thi cho thị trường này. Các nhà máy CIS gần như chắc chắn sẽ tiếp tục đẩy mạnh khối lượng lớn đến các điểm đến châu Á nhưng họ có thể phải đi dưới ngưỡng 500 USD/tấn CFR để được như vậy.