Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Tổng quan thép thế giới tuần 39/2018

Nhật Bản

Thép tấm: Giá thép tấm của Nhật Bản được dự báo sẽ tăng trong tháng 10 khi các nhà phân phối dự kiến ​​sẽ nâng giá chào bán. Giá thị trường hiện tại của tấm SS400 dày 19 mm (1.524 mm x 3.480 mm) ở Tokyo là khoảng 90.000-91.000 Yên/tấn (797- 806 USD/tấn), không thay đổi so với cách đây một tháng. Các nhà phân phối thép tấm đang để mắt đến việc tăng giá thêm 1.000-2.000 Yên/tấn từ tháng 10 để chuyển mức giá tăng trước đó của các nhà sản xuất đến khách hàng của họ.

Thép cây: Nhà sản xuất thép cây lớn nhất Nhật Bản -Kyoei Steel cho biết hôm thứ Năm là sẽ giữ giá thép cây cho tháng 10 không thay đổi so với tháng 9 vì công ty chờ đợt tăng giá 2.000 Yên/tấn của mình vào tháng trước được thị trường hấp thụ hết trước khi điều chỉnh giá thêm. Kyoei không công bố giá niêm yết của mình, nhưng giá thị trường hiện tại cho thép cây cỡ cơ bản ở Osaka là khoảng 66.000-67.000 Yên/tấn (587-596 USD/tấn) và ở Tokyo khoảng 73.000-74.000 Yên/tấn, cả hai đều không đổi so với tháng trước đó. Nhưng công ty lưu ý giá có thể sẽ tăng thêm trong những tháng tới. Hiện tại, giá phế đã đạt mức cao nhất và các chi phí đầu vào khác như điện cực và phí giao hàng cũng đang tăng lên thêm, khiến các nhà máy mini Nhật Bản phải cân nhắc chuyện tăng giá hơn nữa.

Đài Loan

Phế: Các nhà máy Đài Loan đang chuẩn bị sản xuất nhiều hơn trong tháng 10, sau khi kết thúc đợt giá điện tăng cao vào mùa hè được triển khai từ tháng 6 đến tháng 9. Hiện tại, giá mua phế trong nước của nhà máy mini Feng Hsin Iron and Steel đang phổ biến ở mức 10.800 Tân đài tệ/tấn (351,9 USD/tấn) trong tuần này, sau khi mở cửa trở lại sau ngày nghỉ Tết trung thu hôm thứ Hai.

Trong khi đó, giá thép cây hiện tại của Feng Hsin trong tuần này ở mức 18.300 Tân đài tệ/tấn (596,3 USD/tấn) xuất xưởng Đài Trung cho thép cây cỡ cơ bản có đường kính 12-32mm, cao nhất từ ​​trước đầu năm đến nay.

Ấn Độ

HRC: Giá thép cuộn cán nóng tại thị trường nội địa Ấn Độ vẫn ổn định khi sắp vào cuối tháng, ngay cả khi người mua đã chuẩn bị ứng phó cho giá tăng trong những tháng tới. S & P Global Platts định giá HRC IS2062 dày 2.5-10 mm giao tới Mumbai ở mức 46.350 Rupee/tấn (638 USD/tấn), không thay đổi so với thứ Tư tuần trước. Định giá này không bao gồm thuế hàng hóa dịch vụ 18%.

Các nhà máy này cho rằng họ cần phải nâng giá là do chi phí nguyên liệu tăng vì đồng nội tệ mất giá, đặc biệt là than cốc được nhập khẩu. Người mua sẽ phải chấp nhận giá tăng, vì nhập khẩu cho thấy không thể khả thi ở mức giá hiện tại do những rủi ro liên quan đến biến động ngoại hối. 

Châu Âu

Tấm mỏng: Tại thị trường Nam Âu,  giá thép cuộn của Italy đã bắt đầu giảm do thái độ chờ đợi và quan sát kéo dài của người mua cũng như chào giá bán rẻ hơn từ Thổ Nhĩ Kỳ đã gây áp lực lên các nhà máy trong nước.

Thổ Nhĩ Kỳ giảm giá thêm 15 euro/tấn từ giữa tháng 9 xuống còn 515 euro/tấn CFR cảng Italy cho các lô hàng HRC tháng 11, với một số vật liệu được bán với số lượng lớn cho các nhà sản xuất thép ống ở mức chiết khấu 5 euro/tấn. Trong khi đó hầu hết các nhà máy của Italy vào cuối tuần trước đã bắt đầu giảm giá chào bán của họ xuống mức xuất xưởng cơ bản là 530-535 euro/tấn so với giá xuất xưởng 545-550 euro/tấn trước đó, mặc dù không phải tất cả các nhà máy. HDG và CRC cũng chịu áp lực. Chào giá HDG ở mức xuất xưởng 640 euro/tấn và CRC ở mức 630 euro/tấn, nhưng Thổ Nhĩ Kỳ đang chào tại mức 600-620 euro/tấn cơ bản xuất xưởng, giá dự kiến ​​sẽ giảm.

Trong khi đó tại Bắc Âu tình hình cũng tương tự Nam Âu khi chào bán nhập khẩu thép cuộn cán nóng đã trở nên hấp dẫn trở lại do khoảng cách giữa hàng nhập khẩu và giá xuất xưởng Ruhr đã mở rộng tới 40-50 euro/tấn (47- 59 usd/tấn).

Chào bán từ Nga đã được nghe nói tại mức 540-550 euro/tấn giao Ruhr, trong khi chào giá Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ đã được nghe nói khoảng 520 euro/tấn CIF Antwerp hàng cập cảng tháng 12.

Tuy nhiên, không giống như thị trường ở Italy, giá tại Bắc Âu vẫn ổn định do các nhà máy vẫn giữ nguyên giá chào bán chính thức tại 580-600 euro/tấn xuất xưởng Ruhr, với mức giá chào thấp nhất từ ​​một nhà máy ở châu Âu nghe nói ở mức 570 euro/tấn xuất xưởng Ruhr cho các đơn đặt hàng tháng 11/tháng 12.

Thép tấm:  Giá thép tấm châu Âu đã ổn định trong hai tuần qua với các nhà máy không thể đẩy giá mua lên cao hơn trong bối cảnh niềm tin suy yếu trong tất cả các sản phẩm thép dẹt - cũng như do giá phôi slab giảm đã khiến người mua ở bên lề, theo cho các nguồn thị trường.

Ở Nam Âu, các nhà cán lại Italy đang nhắm mục tiêu đạt mức 620 euro/tấn (722 usd/tấn) cơ bản xuất xưởng cho tấm S275 vào cuối tháng 9 thay vì giá vẫn ổn định ở mức 590-600 euro/tấn xuất xưởng. Ở Bắc Âu, các nhà máy vẫn duy trì chào giá ổn định 640-650 euro/tấn xuất xưởng Ruhr cho S235.

Chào giá nhập khẩu chủ yếu từ Ấn Độ tại mức 575 euro/tấn CIF các cảng Italy cho hàng cập cảng tháng 12. Các nhà máy Italy hiện đang bán nguyên liệu giao hàng tháng 11.

Thổ Nhĩ Kỳ

Thép dài: Áp lực giá đang tiếp diễn trên thị trường thép cây Thổ Nhĩ Kỳ, trong bối cảnh nhu cầu đang diễn ra chậm chạp ở cả thị trường nội địa và xuất khẩu. Tuy nhiên, chi phí đầu vào tăng của các nhà máy và giá phế tương đối ổn định đã ngăn chặn sự suy giảm đáng kể trong giá thép cây của các doanh nghiệp trên cơ sở đô la.

Mặc dù giá niêm yết theo đồng lira của các nhà máy đã giảm, giá nhà máy tương đối ổn đinh trên cơ sở đô la Mỹ trong khoảng 520-525 usd/tấn xuất xưởng, trong khi giá niêm yết cuộn trơn ở mức 570-575 usd/tấn xuất xưởng, tùy thuộc vào khu vực. Giá chào xuất khẩu của nhà máy giảm khoảng 5 usd/tấn trên cơ sở FOB, nhưng áp lực giảm giá của người mua vẫn tiếp diễn.

Trong khi đó xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ đã bị đình trệ từ đầu tuần với  khoảng cách giữa giá hỏi mua và giá chào bán từ từ thu hẹp lại. Giá hỏi mua dao động quanh mức 500-505 usd/tấn FOB trong khi giá chào bán ban đầu là 515-520 usd/tấn FOB, nhưng nhích gần hơn đến 515 usd/tấn FOB vào thứ Tư.

Tại thị trường cuộn trơn giá chào xuất khẩu cuộn trơn của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ trong thời gian gần đây ở mức 560-565 usd/tấn FOB, tùy thuộc vào trọng tải và chất lượng, phù hợp với giá phế nhập khẩu tương đối ổn định, trong khi giá hỏi mua thấp hơn khoảng 10-15 usd/tấn .

Tấm mỏng: Mặc dù nhu cầu đối với HDG Thổ Nhĩ Kỳ ở châu Âu đã tăng dần trong những tuần gần đây, áp lực giá vẫn đang tiếp tục, do nhu cầu thấp trong thị trường nội địa và thị trường Mỹ đã giảm các lựa chọn xuất khẩu của các nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ.

Các nhà máy cuộn mạ Thổ Nhĩ Kỳ chào giá HDG DX51D với lớp mạ kẽm 100 gram/mét vuông, 0,50 mm, với giá 720-740 usd/tấn, nhưng một số giảm giá cũng có sẵn cho các đơn đặt hàng lớn.

Trong khi đó mặc dù các nhà sản xuất thép cuộn cán nóng trong nước của Thổ Nhĩ Kỳ đang cố gắng duy trì giá chào trong nước ở mức 570-575 usd/tấn xuất xưởng, tùy thuộc vào khối lượng, kỳ vọng trên thị trường vẫn bi quan với dự đoán giá có thể sớm thấy mức 550 usd/tấn.

Phế: Giá lira của phế DKP trong nước và giá usd của phế tàu cũ duy trì ổn định kể từ đầu tuần trước. Giá mua DKP trong nước của một số nhà máy cao hơn giá HMS 1/2 (80:20) nhập khẩu.Colakoglu, đã mua phế DKP ở mức 2.020 lira/tấn (330 usd/tấn) kể từ ngày 19 tháng 9, trong khi giá mua DKP của Asil Celik, cũng đi ngang tại 2.050 lira/tấn (319 usd/tấn). Eregli của Erdemir ở miền bắc Thổ Nhĩ Kỳ, mua phế  DKP ổn định ở mức 2.050 lira/tấn (335 usd/tấn) kể từ ngày 18 tháng 9. Nhà máy Iskenderun tăng giá mua phế DKP nội địa thêm 50 lira/tấn kể từ ngày 25 tháng 9 lên mức 2.050 lira/tấn (335 usd/tấn). Kardemir mua DKP từ thị trường nội địa tại mức 1.970 lira/tấn (322 usd/tấn). Phế tàu cũ, trong khi đó, đã được chào giá đến hầu hết các nhà máy ở miền tây Thổ Nhĩ Kỳ (Ege Celik, IDC, Ozkan, Habas) với giá 325 usd/tấn kể từ ngày 18 tháng 9.

CIS

Phôi: Giao dịch phôi billet Biển Đen đã chậm lại với bất kỳ chuyển động nào có thể xảy ra trong vài ngày tới nhiều khả năng sẽ là giảm. Chào giá từ CIS ở mức 480-490 usd/tấn FOB Biển Đen. Trong khi đo, giá hỏi mua billet có nguồn gốc CIS đang thấp hơn đáng kể so với giá chào bán của nhà máy trong tuần này.Thị trường nhiều khả năng sẽ tiếp tục bất ổn cho đến tuần sau khi các nhà sản xuất dự kiến ​​sẽ chào bán sản sản lượng tháng 11 một cách tích cực hơn.Giá chào bán thấp nhất được nghe gần đây là 475 /tấn FOB Novorossiisk trong khi giá chào bán phổ biến là 480 usd/tấn FOB với giá hỏi mua tại 470 usd/tấn FOB và 464 usd/tấn FOB.