Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Tổng quan thép thế giới tuần 11/2017

 Nhật Bản

Giá thị trường cho thép cây tại Tokyo đã nhảy vọt trong tuần qua do chi phí phế tăng và nhu cầu xây dựng vào mùa xuân cải thiện. Giá thị trường cho thép cây SD295 cỡ thường tại Tokyo là 57.000-58.000 Yên/tấn (503-512 USD/tấn), tăng 2.000 Yên/tấn so với đầu tuần này. Giá ở Osaka là khoảng 55.000-56.000 Yên/tấn, không thay đổi so với đầu tuần này nhưng cao hơn 3.000 Yên/tấn so với đầu tháng này.
Theo dự báo của Bộ Đất đai, Cơ sơ hạ tầng và Giao thông vận tải (MLIT), nhu cầu thép thông dụng của ngành xây dựng Nhật Bản trong tháng 4 sẽ tăng 5,9% so với năm trước, đạt 1,85 triệu tấn. Con số này giảm 5,1% so với dự báo nhu cầu tháng 3 của Bộ. Giá thị trường của dầm hình H cỡ lớn tại Tokyo hiện ở mức 72.000-73.000 Yên/tấn (627-635 USD/tấn), không thay đổi so với cách đây một tháng, trong khi đó thép cây cỡ thường ở mức 55.000-56.000 Yên/tấn (479-487 USD/tấn), tăng 1.000 Yên/tấn so với tháng trước đó.
Giá thị trường cho tấm mỏng không gỉ austenit và ferritic tại Nhật Bản đã leo dốc trong tuần qua, do bởi nguồn cung thắt chặt và các nhà sản xuất thông báo tăng giá lên. Giá thị trường hiện tại cho tấm mỏng cán nguội loại 304 dày 2mm tại Tokyo khoảng 330.000 Yên/tấn (2.875 USD/tấn) và tấm mỏng cán nguội loại 430 tấm là khoảng 270.000 Yên/tấn (2.352 USD/tấn), cả hai đều tăng 10.000 Yên/tấn so với một tuần trước.
Đài Loan
Nhà sản xuất thép cây hàng đầu của Đài Loan, Feng Hsin Iron & Steel, đã quyết định giữ giá niêm yết thép cây và giá mua phế trong nước không đổi trong tuần này khi thị trường thép và nguyên liệu đang gửi các tín hiệu trái chiều. Theo đó, giá của Feng Hsin cho thép cây đường kính chuẩn 13mm vẫn ở mức 15.600 Đài tệ/tấn (504 USD/tấn), và giá mua phế HMS 1 & 2 tại thị trường nội địa vẫn ở mức 7.800 Đài tệ/tấn. Giá thép cây hiện tại của Feng Hsin đang ở mức cao nhất kể từ ngày 19 tháng 1 năm 2015. Hiện tại, công ty đang theo dõi xu hướng thị trường ở Trung Quốc vì điều này có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của công ty.
China Steel Corp (CSC) đã bắt đầu thông báo tới các khách hàng Nhật rằng giá các sản phẩm tấm mỏng sẽ được tăng lên thêm 5.000-7.000 Yên/tấn (44-61 USD/tấn) cho các lô hàng giao từ tháng Tư đến tháng Sáu. Lần tăng mới này sẽ nâng tổng mức tăng kể từ tháng 11 lên 23.000-25.000 Yên/tấn.

Mỹ

Tuần này, Platts nâng giá HRC lên 640- 650 USD/st từ mức 635-640 USD/st và định giá CRC lên 840-860 USD/st từ 830-850 USD/st. Cả hai định giá đều được chuẩn hoá theo cơ sở xuất xưởng Midwest (Indiana).
Dự trữ thấp của các trung tâm dịch vụ ở Mỹ vẫn duy trì ở mức sẽ hỗ trợ giá sản xuất trong nước cao hơn đã được công bố hồi đầu tháng.. Metals Service Center Institute hôm thứ Ba cho biết các trung tâm dịch vụ đang có 2,2 tháng cung cấp nguồn cung cuộn dẹt, mức tương đối thấp. Mức tăng 30 đô la Mỹ đã được áp dụng hoàn toàn, theo nguồn tin nhà máy.
Nucor tăng giá cuộn trơn có hiệu lực với các đơn hàng mới vào ngày 1 tháng 4, nhà sản xuất thép của Mỹ đã công bố trong tuần này.
Giá cuộn trơn cacbon thấp sẽ tăng 45 USD/st, trong khi giá cuộn trơn cacbon cao sẽ tăng 60 USD/tấn, phản ánh quyết định tương tự của Keystone Steel & Wire và Gerdau Long Steel North America.
Giá thép tấm đã trên đà tăng ở thị trường Mỹ sau thông báo tăng giá khoảng 10 ngày trước.
Giá mới sau khi tăng 30-50usd/st, phụ thuộc vào sản phẩm và nhà sản xuất. Giá thép tấm mới đã được báo giá ở mức 760-800usd/st đã giao hàng nhưng "quá sớm để nói nếu liệu 800usd/st là con số mới sau khi đà tăng gần đây nhất,”.
Platts đã tăng mức giá A36 hàng ngày lên 730-740usd/tấn từ mức 700-720usd/tấn xuất xưởng nhà máy ở phía đông nam nước Mỹ.

EU

Platts giảm mức trung đỉểm định giá thép cuộn cán nóng ở Bắc Âu 3 euro trong tuần này, với phạm vi giá còn khoảng 565-575 euro (607,21- 617,95 USD) xuất xưởng Ruhr.
Giá thấp hơn đã được cho biết, ghi nhận những chào bán từ trung tâm châu Âu với giá 550-560 euro, trong khi các nhà máy lớn ở Tây Âu có thể giao dịch ở mức 565-570 euro/tấn. Ấn Độ là nhà đối thủ chính với thương nhân ghi nhận giá khoảng 510 euro CIF Antwerp.
Chào giá thép dài của châu Âu đã tăng lên, sau mức tăng 25-30 USD/tấn trong thị trường phế trong tháng này. Tuy nhiên, không có nhiều giao dịch được thực hiện ở mức giá mới, với người mua cho biết có hàng tồn kho cao và đang đánh giá thị trường.
Giá thép cây tuần này ở Đức là mức 220-230 euro/tấn với một nhà cung cấp yêu cầu mức 240-250 euro/tấn. Giá cuộn trơn cũng được báo cáo ở mức 480-490 euro/tấn nhưng với giá giao dịch cuối cùng là 470 euro/tấn ở Đức.
Tại Pháp, thị trường thép cây đạt 210-215 USD/tấn, tăng 15-20 USD/tấn so với tuần trước. Tuy nhiên, Celsa ở Pháp được cho là sẽ chào bán với mức giá 200 euro/tấn. Tại Italia, các nhà máy cũng đã tăng giá lên 170 euro/tấn, sau khi chốt thành công một số giao dịch cách đây vài tuần ở mức 150 euro/tấn.
Các nhà máy cũng đã cố gắng tăng giá thép hình, với các chào hàng mới ở Bắc Âu được báo cáo là 525-530 euro/tấn. Giá ở Ban Nha tăng 15%/tấn lên 520 euro/tấn.

CIS

Platts tuần này định giá phôi thanh xuất khẩu CIS ở mức 410 USD FOB Biển Đen. Giá chào bán CFR của các nhà cung cấp phôi Nga là 425 USD/tấn. Giá có thể sẽ là 410USD/tấn FOB trong tuần bắt đầu từ ngày 20 tháng 3 vì nhu cầu không đủ để hỗ trợ cho mức sản xuất hiện tại.

Thổ Nhĩ Kỳ

Tuần này, Platts đã giảm giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ hàng ngày 2,50 USD/tấn còn 445 USD /tấn (442,50 - 447,50 USD/tấn) FOB Thổ Nhĩ Kỳ.
Các giá chào đến Ai Cập đã được nghe nói ở mức 465usd/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, tương đương 455 USD FOB trọng lượng thực tế. Giá CFR Mỹ là 515 USD/tấn trọng lượng lý thuyết, hay 443 USD FOB trọng lượng thực tế chưa thuế.
Mặc dù các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ vẫn duy trì mức giá niêm yết trong suốt tuần 6, giá của nhà tích trữ ở các vùng khác nhau đã giảm do nhu cầu trầm lắng và đồng lira tăng giá.
Giá thép cây 12-32mm của các nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ duy trì ở mức 1.990-2.010 TRY (550-556 USD).
Tuy nhiên, các nhà tích trữ đã hạ giá chào bán thép cây cho thị trường nội địa khoảng 10-20 TRY (2-3USD) nhằm thúc đẩy nhu cầu, với giá xuất kho của thép cây đường kính 12-32mm ở khu vực Marmara đã giảm còn 2.000-2.020 TRY/tấn (bao gồm 18% VAT), trong khi giá các nhà tích trữ tại khu vực Karabuk, miền bắc Thổ Nhĩ Kỳ, giảm còn 1.960-1.980 TRY/tấn.
Thị trường phôi thanh trong nước cũng chậm lại mặc dù giá phôi trong nước vẫn được duy trì ở mức giá 425-430 USD hôm thứ Sáu.
Giá thép cuộn cán nguội của Thổ Nhĩ Kỳ nhìn chung vẫn ổn định trong tuần này song song với giá thép cuộn cán nóng, do giá nguyên liệu đầu vào và chào giá nhập khẩu mạnh mẽ. Tuy nhiên, nhu cầu bị áp lực từ tính bất ổn của thị trường.
Một nhà sản xuất CRC ở khu vực Marmara tiếp tục chào giá 640 USD/tấn cho thị trường nội địa, trong khi giá niêm yết của các nhà sản xuất CRC trong nước nói chung nằm trong khoảng 635-655 USD/tấn xuất xưởng.
Giá niêm yết của các nhà sản xuất HRC của Thổ Nhĩ Kỳ cũng giữ nguyên tuần thứ 2 liên tiếp với mức 540-560 USD/tấn, trong khi giá giao dịch nhìn chung là khoảng 540-550 USD/tấn. Và giá của các nhà tích trữ cao hơn khoảng 15-20 USD/tấn.
Mặc dù giá chào bán thép cuộn mạ của Thổ Nhĩ Kỳ vẫn ổn định trong tuần này sau khi tăng khoảng 40usd/tấn vào đầu tháng 3, nhu cầu giảm ở cả thị trường trong nước và xuất khẩu có thể buộc các nhà sản xuất phải bắt đầu có chiết khấu.
Giá chào bán các sản phẩm thép cuộn mạ của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ ổn định trong tuần trong phạm vi 750-770usd/tấn xuất xưởng. Chào giá nhà máy cho HDG dày 1mm trong khi đó là 690-690usd/tấn xuất xưởng và các chào bán xuất khẩu HDG ở mức tương tự.
Hầu hết các nhà cung cấp trong nước chào giá PPGI 9002 dày 0.5mm cũng tương đối ổn định trong 840-860usd/tấn.