Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Tổng quan thép thế giới tuần 02/2017

Nhật Bản
Nippon Steel & Sumikin Stainless đã quyết định tăng giá niêm yết trong nước cho CRC và thép tấm austenitic lên 15.000 Yên/tấn (129 USD/tấn) đối với những hợp đồng tháng 1 và 5.000 Yên/tấn cho CRC ferritic. Như vậy tổng mức tăng qua các lần điều chỉnh kể từ tháng 8 cho giá CRC và thép tấm austenitic của NSSC lên đến 40.000 Yên/tấn, và 35.000 Yên/tấn cho CRC ferritic từ tháng 9.
NSSC không bao giờ tiết lộ giá niêm yết của mình nhưng giá thị trường hiện nay cho CRS loại 304 dày 2mm tại Tokyo khoảng 310.000 Yên/tấn (2.672 USD/tấn) và CRS loại 430 có giá 250.000 Yên/tấn (2.155 USD/tấn). Giá thị trường cho thép tấm loại 304 tại Tokyo là 510.000 Yên/tấn (4.397 USD/tấn), tất cả đều không đổi so với 1 tháng trước.
JFE Steel đã quyết định tăng thêm 10.000 Yên/tấn (87usd/tấn) vào giá trong nước và xuất khẩu thép cây và cuộn trơn (thông thường và đặc biệt) từ tháng Một, công ty này đã xác nhận hôm thứ Sáu. Như vậy tổng mức tăng mà nhà máy áp dụng cho cuộn trơn và thép cây trong nước hiện lên đến 20.000 Yên/tấn.

Ấn Độ
Giá HRC Ấn Độ vẫn duy trì ổn định trong tuần này, khi người mua tiếp tục phản đối mức tăng gần đây. Giá xuất xưởng Mumbai cho HRC IS 2062 dày từ 3mm trở lên phổ biến ở mức 39.500-40.500 Rupees/tấn (578-593 USD/tấn) gồm phí vận chuyển, tương đương 46.601-47.781 Rupees/tấn, gồm VAT 5% và thuế tiêu thụ 12.5%. Mặc dù nhu cầu suy yếu nhưng vào đầu tháng này các nhà máy Ấn Độ đã quyết định nâng giá bán trong nước thêm 3.000 Rupees/tấn. Nhu cầu vẫn còn suy yếu khi nền kinh tế nước này tiếp tục vật lộn những dư chấn từ động thái đổi tiền của chính phủ.
Hàn Quốc
Hôm thứ Hai, các nhà sản xuất thép cây hàng đầu của Hàn Quốc và các công ty thầu xây dựng cuối cùng cũng đã thống nhất được giá bán quý 1, với giá tăng khoảng 35.000 Won/tấn (29 USD/tấn) so với quý trước.
Đây là một thắng lợi cho các nhà máy mini được dẫn đầu bởi Hyundai Steel, nhà máy này đã duy trì giá ở mức 585.000 Won/tấn (490 USD/tấn) cho 3 quý liên tiếp từ quý 2 năm ngoái. Hiện nay các công ty thầu xây dựng, đại diện bởi Korea Construction Procurement Part Association (KCPPA), đã đồng ý trả với giá 620.000 Won/tấn (519 USD/tấn) cho thép cây SD400 đường kính 10mm.
Đài Loan
Feng Hsin Iron & Steel đã quyết định sẽ duy trì giá niêm yết cho thép cây và cả giá mua phế trong tuần này. Theo đó, từ ngày 9-13/1 giá mua phế HMS 1&2 (80:20) của Feng Hsin vẫn ở mức 7.400 Đài tệ/tấn (231 USD/tấn) và giá niêm yết thép cây ở mức 14.800 Đài tệ/tấn xuất xưởng. Những người mua trực tiếp không hào hứng đặt đơn hàng mới cho thép cây kể từ đầu năm nay vì giá phế thế giới và chào giá phôi thép của Trung Quốc đều có dấu hiệu suy yếu.
Thái Lan
Mưa lớn và lũ lụt ở miền nam Thái Lan sẽ gây ảnh hưởng đến nhu cầu thép cây, mặc dù giá trong nước vẫn đang duy trì ở mức cuối tháng 12. Các yếu tố chi phí đẩy bao gồm giá phôi thép và nguyên liệu trong đó có phế là nguyên nhân chính đẩy giá thép cây trong nước đi lên. Chào giá từ các nhà máy hiện nay là 17.000-17.300 Bath/tấn (476-484 USD/tấn). Vào cuối tháng 11, giá thép cây Thái Lan thấp hơn 2.000 Bath/tấn xuống khoảng 15.000 Bath/tấn.

CIS
Những thông tin đầu tiên về các đặt mua phôi thanh Biển Đen chốt bởi các nhà máy CIS tuần này cho thấy rằng giá chống lại áp lực đi xuống nhờ vào sự hỗ trợ của một vào doanh số bán trong kh
u vực Địa Trung Hải. Chào giá vẫn chưa được thử nghiệm bởi những người mua ở Thổ Nhĩ Kỳ. Hai lô hàng sản xuất tháng Hai đã được bán từ Nga, một lô hàng 10.000 tấn đến Syria, 5.000 tấn khác đến Bắc Phi, cả hai đều chốt ở mức 400usd/tấn FOB Novorossiysk.
Chào giá được duy trì trong khoảng 400-405usd/tấn FOB Biển Đen. Một nhà sản xuất Ukraina chào giá thấp nhất 390usd/tấn FOB Mariupol, với sự chênh lệch được giải thích bởi các rủi ro liên quan đến hàng hải ở Biển Azov trong các điều kiện thời tiết băng có khả năng xuất hiện trong tuần tới.
Platts định giá phôi là 400usd/tấn FOB Biển Đen, tăng 5usd/tấn.
Các nhà máy CIS đã nâng giá chào phôi tấm đến 425-430usd/tấn FOB Biển Đen, nhằm thu hẹp khoảng cách 100 usd/tấn giữa cuộn cán nóng và HDG. Platts tăng định giá phôi tấm CIS hàng tuần thêm 7,50usd/tấn trong tuần lên đến 410-420usd/tấn FOB Biển Đen.
Chào giá xuất khẩu thép cuộn cán nóng của nhà máy CIS đã tăng lên sau kỳ nghỉ, với báo giá mới tăng 10usd/tấn so với giá bán gần nhất là 500-510usd/tấn FOB Biển Đen. Platts định giá HRC CIS tại mức 495-500usd/tấn, tăng 2,50usd/tấn trong ngày, với định giá CRC tăng 2,5usd/tấn, lên mức 540-550usd/tấn, FOB Biển Đen.

EU
Platts duy trì định giá thép cuộn cán nóng phía bắc châu Âu ở mức 560-565 euro/tấn xuất xưởng Ruhr. Mức giao dịch HRC là 580-600 euro/tấn cho nguồn cung Q1 còn lại. Một nhà máy ở khu vực Trung Âu chào giá 560 euro/tấn xuất xưởng đã tăng giá chào 30 euro/tấn hôm thứ Hai. Hầu hết các nhà máy khác của EU đã có đủ đặt hàng trong quý này, trong khi người mua ở Đức và Benelux ghi nhận mức gioa dịch khoảng 560 euro/tấn. Chào giá nhập khẩu đã tăng lên khoảng 530 euro/tấn CIF Antwerp do đồng đô la mạnh hơn.
Những nhà sản xuất ống hàn châu Âu chốt giá chào bán thành công trong tháng cuối cùng của năm 2016 và đang cân nhắc đợt tăng mới do xu hướng đi lên của giá thép cuộn. Trên cơ sở tháng giá ống hàn đã tăng 30-40 euro/tấn lên mức khoảng 16-14 điểm cơ bản của giảm giá (dựa trên bảng giá cũ của Marcegaglia).
Thị trường thép tấm châu Âu dần đạt được lực kéo hơn vào cuối tuần trước, trong bối cảnh thông báo giá chào cao hơn trong tương lai và một thị trường nhập khẩu yên ắng. Platts đã tăng định giá hàng tuần cho S235 5 euro/tấn, lên phạm vi 560-570 euro/tấn xuất xưởng Ruhr. Định giá nhập khẩu vẫn ổn định ở mức 520-540 euro/tấn CIF Antwerp.
Thị trường thép cây châu Âu đã nhìn thấy đợt tăng giá đầu tiên kể từ sau kỳ nghỉ sau khi giá chốt mua phế tăng.
Giá thép cây 12mm ở Đức đã tăng lên đến 480-490 euro/tấn đã giao thực tế, tăng 15-20 euro/tấn so với giá trước kỳ nghỉ lễ. Ở Italy nhà sản xuất tăng giá đến 140-150 euro/tấn cơ bản xuất xưởng và ở Tây Ban Nha đến 480 euro/tấn đã giao thực tế. Thị trường FOB Châu Âu ở phía Nam cũng tăng cường, với giá 425-430 euro/tấn, tăng 15-20 euro/tấn. Định giá thép cây phía tây bắc châu Âu hôm thứ Sáu tăng lên mức 465-470 euro/tấn xuất xưởng phía tây bắc châu Âu, tăng 2,50 euro/tấn, từ thứ Năm.
Nhà sản xuất thanh thương lớn nhất của châu Âu, Beltrame, tăng giá cơ sở cho tất cả các sản phẩm của mình thêm 20 euro/tấn trong nước và trên khắp châu Âu bắt đầu từ tuần này. Giá thanh thương cũ ở Italy là khoảng 490 euro/tấn thực tế xuất xưởng, thép hình loại 1 khoảng 520 euro/tấn thực tế xuất xưởng.
Giá phế Nam Âu đã tăng lên trong tuần qua do hầu hết các nhà máy đã khởi động lại sản xuất sau khi ngừng sản xuất trong kỳ nghỉ lễ. Hầu hết các nhà máy Italy đã đồng ý trả giá tăng 15-20 euro/tấn đến các đại lý địa phương so với tháng trước, và tăng 25 euro/ tấn cho phế có nguồn gốc Đức. Các nhà máy Tây Ban Nha trả giá tăng 20 euro/tấn vào đầu tuần, theo một số nguồn tin.

Thổ Nhĩ Kỳ
Giá xuất kho thép cây ở các vùng khác nhau của Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng lên đáng kể trong tuần này trong bối cảnh đồng tiền lira mất giá mạnh, trong khi một số nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã chốt đóng đơn đặt hàng của họ để điều chỉnh giá trong bối cảnh nhu cầu trì trệ liên tục trong cả hai thị trường trong nước và xuất khẩu.
Một số nhà sản xuất thép dài tăng giá niêm yết 40-60 TRY (10-15usd)/tấn trong suốt cả tuần để bù đắp sự mất giá của đồng lira, trong khi nhà sản xuất Icdas, Kardemir và Bastug Metalurji ở Osmaniye, đã đóng đơn đặt hàng để điều chỉnh giá. Tuy nhiên, các nhà máy đã không công bố bất kỳ giá niêm yết chính thức mới nào vào chiều thứ Năm, trong khi tỷ giá biến động tiếp tục.
Chào giá thép cây của nhà tích trữ, trong khi đó, đã tăng lên phạm vi là 1.870-1.940 TRY/tấn (bao gồm 18% VAT), tùy thuộc vào khu vực. Tuy nhiên, các mức giá này tương đối ổn định trên cơ sở đồng lira, do tiền tệ suy yếu trong suốt cả tuần.
Thị trường phôi thanh trong nước cũng đã chậm lại trong bối cảnh các điều kiện thị trường, trong khi giá phôi thanh trong nước giảm còn 405-415usd/tấn xuất xưởng, mặc dù chào giá phôi nhập khẩu mạnh mẹ thậm chí còn cao hơn so với mức giá trong nước.
Platts định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 425usd/tấn FOB, không đổi.
Giá mua phế shipbreaking bằng đồng USD của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ và phế DKP bằng đồng lira phần lớn vẫn ổn định kể từ tuần cuối cùng của tháng 12, trong bối cảnh khối lượng thương mại thấp và biến động tỷ giá hối đoái mạnh mẽ đã nâng cao sự thận trọng trên thị trường.
Giá mua các nhà máy thép Thổ Nhĩ Kỳ cho phế shipbreaking ở miền tây Thổ Nhĩ Kỳ (Ege Celik, Habas, IDC, Cebitas, Ozkan), ở mức 255usd/tấn, ổn định so với tuần trước.
Giá mua phế DKP cũng vẫn ổn định kể từ giữa tháng 12, trong bối cảnh nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu chậm đối với các sản phẩm thép thành phẩm. Như vậy, giá mua DKP của các nhà máy EAF Thổ Nhĩ Kỳ vẫn trong phạm vi rộng là 795-880 TRY (214-236usd)/tấn.
Nhu cầu cho thành phẩm sẽ xác định xu hướng thu mua phế trong nước và nhập khẩu của nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ trong những ngày tới, các nguồn tin quan sát.
Do sự sụt giảm nhanh chóng của đồng lira làm giá tăng bất ổn, hoạt động thương mại ở thị trường tấm mỏng Thổ Nhĩ Kỳ đã chậm lại đáng kể trong tuần này. Hầu hết người mua tấm mỏng Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục tỏ ra rất nhỏ thận trọng và chỉ mua phù hợp với nhu cầu trước mắt.
Chào giá HRC của nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ cho thị trường trong nước nói chung trong khoảng 540-550usd/tấn cho hàng sản xuất cuối tháng 02/tháng 03, trong khi chào giá xuất khẩu thấp hơn khoảng 10usd/tấn, với mức giảm giá có sẵn cho đặt mua khối lượng khá lớn.Trong khi đó, không có hoạt động thương mai nhập khẩu đáng kể nào được nghe nói tại Thổ Nhĩ Kỳ trong suốt tuần, trong bối cảnh biến động tỷ giá mạnh mẽ, nhưng chào giá HRC mới nhất mà một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ nhận được từ Ukraina ở mức 505usd/tấn CFR.
Nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã duy trì giá niêm yết CRC, nhưng họ cũng đang cung cấp chiết khấu để kích thích nhu cầu tiêu thụ. Giá niêm yết của các nhà sản xuất CRC trong nước nói chung trong khoảng 630-650usd/tấn xuất xưởng. Tuy nhiên, giảm giá 10usd/tấn cũng đã có sẵn trên các giá niêm yết cho đặt mua lớn. Chào giá CRC đến Thổ Nhĩ Kỳ cũng vẫn chủ yếu đi ngang trong suốt cả tuần. Chào giá CRC nhập khẩu mới nhất đến Thổ Nhĩ Kỳ nói chung trong khoảng 560-580 euro/tấn CFR, trong khi chào giá cao hơn lên tới 620usd/tấn CFR cũng đã có sẵn.

 Mỹ
Giá giao dịch HRC Mỹ dường như đang ở vị thế tăng do các nhà máy trong nước đang duy trì ổn định giá giao ngay mới sau một loạt thông báo tăng giá gần đây. Tuy nhiên, hoạt động giao ngay mới ở mức hơn không thể được ký kết do nhiều người mua vẫn còn cảm thấy thoải mái với hàng tồn kho của họ cũng như nguồn cung HRC hợp đồng.
Giá HRC nội địa đã được báo giá 640usd/st xuất xưởng. Giá nhập khẩu HRC đã nghe nói khoảng 560usd/st đến 580usd/st trên cơ sở đã giao sau thuế đến Houston và Bờ Đông.
Platts duy trì định giá HRC và CRC nội địa Mỹ tại 600-620usd/st và 810-830usd/st, tương ứng. Cả hai giá chuẩn hóa theo cơ sở xuất xưởng Midwest (Indiana). Ngoài ra, định giá nhập khẩu hàng ngày cho HRC vẫn không đổi ở mức 530-550usd/st, CIF Houston.
Giá cuộn trơn Mỹ tiếp tục tăng lên trong tuần qua do các nhà máy công bố một đợt tăng giá nữa. Platts tăng định giá thép cuộn trơn dạng lưới Mỹ hàng tuần lên mức 520-540usd/st xuất xưởng, tăng từ mức 500-520usd/st.