Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Thị trường thép Việt Nam 19-2011

I.Toàn cảnh thị trường.
Những thông tin hàng về trong cuối tuần trước đã làm thị trường phỏng đoán về một mức giá giảm trong tuần 19.Tuy nhiên, mức giá giảm đã không giảm như phỏng đoán.Thị trường vẫn giữ được nhịp chung trong các hoạt động giao dịch mua bán.Và việc hạ giá để chạy hàng, đề giảm mạnh lượng hàng tồn nhằm giải quyết tài chính ngân hàng đã không diễn ra.Thị trường vẫn duy trì ở nhịp độ chậm chung, với mức giá có thể nói khá ổn vào đến giữa cuối tuần và thay đổi một chút vào cuối tuần
Lãi suất tiếp tục là bước cản đường cho  các hoạt động kinh doanh chung khi duy trì ở mức cao.Cuộc đua lãi suất huy động dường như không dừng lại khi mà các ngân hàng đang khát tiền đồng.Các mức chào vay đưa ra vẫn ở mức >22% và mức lãi suất huy động trên dưới 20%.Với mức lãi suất này các doanh nghiệp dường như đang co cụm lại, nhát tay trong việc đầu tư, mua hàng bán kiếm lời trong một thị trường ổn định ở mức độ thấp.Bài toán về lãi suất ảnh hưởng đến đầu tư có thể tạm tính như sau
A.Nếu với 1,000.0000.000vnd đem đi mua thép:
-Với 1.000.0000.000 vnd vốn, chúng ta sẽ mua được 150  tấn thép trị giá 2.500.0000.000 (16,700 vnd/kg). Trong đó với tỷ lệ 60% vốn lô hàng do ngân hàng tài trợ thì chúng ta phải vay là 1,500.0000.000vnd
-Sau một tháng, số lãi phải trả là 1,500.0000.000vndx22% năm/12 tháng=27.500.000 vnd tiền lãi.
-Nếu lô hàng đó bán rải rác trong vòng một tháng, với mức giá cộng thêm 400 vnd/kg(mức giá này khó đạt được), trừ đi 150 vnd/kg chi phí văn phòng, trừ đi tiền vận chuyển, lưu kho chúng tôi chỉ lời khoảng 150 vnd/kg.Như vậy, mức lợi nhuận là 150 tấn x150vnd/kg=22.500.000 vnd là mức lời cho lô hàng của chúng tôi
-Như vậy, lợi nhuận ngân hàng sau khi trả lãi ngân hàng sẽ là -5.000.000 vnd.Chưa tính đến việc có thể giảm giá do thị trường xấu
B.Nếu với 1,000.0000.000vnd đi gửi ngân hàng:
-Với lãi suất huy động 19,2 % thì 1,000.0000.000vnd x 19.2%năm/12 tháng= 16.000.000 vnd
Bài toán trên chỉ mang tính tương đối vì còn phụ thuộc vào tình hình, quy mô,chi phí, mức độ bán hàng của từng công ty. Tuy nhiên, có thể thấy lãi suất cao tác động rất xấu đến kinh doanh thép như thế nào.
 
Tỷ giá cũng là mắt xích quan trọng trong việc nhập khẩu thép.Vừa qua, tỷ giá đã ổn định và xuống, có lợi hơn cho các nhà nhập khẩu thép.Hiện nay, các nhà nhập khẩu đang tạm tính ở mức giá usd khoảng 20.700 vnd/usd.Tỷ giá  sẽ tiếp tục ổn định trong thời gian tới và các nhà nhập khẩu thép tạm thời yên tâm về yếu tố cấu thành giá thép này.
 
Một số độ dày thuộc các mặt hàng chủ lực trong nước đã trở nên khan hiếm hơn, vì vậy giá cả cũng được nâng lên.Trong cuối tuần vừa qua, mặt hàng 2.0mm SAE1006 đã tăng thêm 150 vnd/kg so với mức giá chào trước đó là 16.700vnd/kg.Trong khi đó mặt hàng tấm chính phẩm vẫn ổn định ở mức giá đang bán của tuần trước.Thị trường hàng tấm đang có khá nhiều mức gía khác nhau, cùng một độ dày, giá bán ở các công ty có thể chênh nhau tới 300-500vnd/kg tùy vào chính sách bán hàng, tài chính... của từng công ty.
 
  II.Thị trường thép xây dựng.
Thị trường thép xây dựng bước vào mùa mưa.Lượng cung thép trên thị trường đối với giá thép được cho là dư và đảm bảo nguồn cung cho tới tháng 7.Thị trường tiêu thụ trong tháng 4 đã giảm tới hơn 40%  Giá thị trường thép xây dựng vẫn nằm ở mức chênh nhau giữa thép xây dựng nhập khẩu và thép xây dựng trong nước.Theo chúng tôi được biết giá thành bán ra hiện nay đối với thép xây dựng nhập khẩu nằmg ở mức 17.000-17.200 vnd/kg đã có VAT10%.Trong khi đó giá thép trong nước vẫn nằm ở mức 17,800-18,200 vnd/kg đã có VAT.Thị truờng bất động sản đóng băng, thị trường vốn bị siết chặt ở lãi suất vì vậy tình hinh kinh doanh thép xây dựng sẽ càng ngày càng khó khăn cho các đại lý bán lẻ.
III. Thị trường thép tấm/cuộn cán nóng
 
Đánh giá tình hình thị trường thép cán nóng Việt Nam các doanh nghiệp kinh doanh thép cho biết.Hiện nay, sức mạnh kinh doanh chỉ nằm ở một số doanh nghiệp, đa số các doanh nghiệp khác vật vờ, và một số doanh nghiệp khác đang bên bờ vực phá sản.
Để giải thích cho điều trên chúng ta thử đi sâu vào thị trường Việt Nam như sau:
A.Nhóm các doanh nghiệp có tài chính mạnh, lực lượng khách hàng đông đảo cũng như hàng hóa dồi dào:Theo chúng tôi được biết ở thành phố Hồ Chí Minh chỉ có khoảng 2-5 doanh nghiệp như trên.Với các doanh nghiệp này, mức giá bán ra cao hơn các doanh nghiệp khác 100-200 vnd/kg.Số lượng hàng tồn tại các doanh  nghiệp này khá lớn, chủ yếu nằm ở mặt hàng thép loại 02 và tất nhiên sẽ có một lượng vừa phải hàng chính phẩm.Các doanh nghiệp này có nguồn tài chính vững vàng nhờ tính thanh khoản cao, hạng mức xếp hạng tín dụng cao đối với các ngân hàng và quan trọng hơn họ có một nguồn khách hàng khá dồi dào, là những người tiêu dùng thật sự trong tình hình thị trường ảm đạm hiện nay.Sản lượng ra hàng của các doanh nghiệp này bỏ xa các doanh nghiệp nhóm dưới có thể đạt từ 10.000-20.000 tấn/tháng
B, Nhóm các doanh nghiệp trung bình và yếu: Bao gồm các doanh nghiệp nhỏ mới ra đời không lâu, hoặc có các doanh nghiệp đã ra đời từ lâu và không hoạt động hiệu quả.Các doanh nghiệp này có quy mô hoặt động  nhỏ, lượng khách hàng không phong phú, xếp hạng tín dụng không cao.Số lượng các doanh nghiệp này ở Việt Nam khá lớn, đang duy trì hoạt động của công ty ở mức có thể.”Tạm thời chúng tôi chỉ hoạt động cầm chừng, kinh doanh  các lô hàng nhỏ lẻ, có tháng lời, có tháng lỗ nhưng chỉ để duy trì hoạt động cho qua năm 2011.Sắp tới vào mùa mưa tình hình còn khó khăn hơn nữa”Một doanh nghiệp thép cỡ nhỏ cho biết.
Trong nhóm này cũng có một nhóm khá đặc biệt là các doanh nghiệp 2-8 doanh nghiệp đã chốt lời ngay từ đầu năm  âm lịch 2011 và hiện tại họ cũng đưa doanh nghiệp mình vào dạng”ngủ đông”.Do chốt lời ngay từ đầu năm nên mức lợi nhuận mà các doanh nghiệp này nhận được là khá cao.Tiền vốn cố định, lưu động được đưa vào gửi ở các ngân hàng, với mức lãi suất huy động hiện nay thì hoàn toàn có thể duy trì chi phí của công ty mà không phải chịu rủi ro.Các doanh nghiệp này, với tiềm lực kinh tế và kinh nghiệm có sẵn, với sự nhạy cảm về thị trường ,họ sẵn sàng trở lại thị trường ngay khi thị trường có chiều hướng có lợi.Chúng tôi xếp họ vào nhóm này dựa trên hoạt động của doanh nghiệp trên thị trường thép
C.Nhóm các doanh nghiệp  bên bờ vực phá sản:Nhóm này trong thị trường thép không rõ ràng và không được công khai, tuy nhiên với mức nợ ngân hàng và siết chặt lại trong việc kinh doanh thép bằng việc không tái cấp vốn làm cho tình hình càng tệ  hơn.Trong số này có cả các doanh nghiệp rất lớn trước đây.
 
Tuần qua, thị trường thép cán nóng diễn ra bình thường trừ một chút đặc biệt hơn vào cuối tuần.Lượng cầu và giá cả của các mặt hàng thép tấm chính phẩm vẫn bình thường ở mức thấp.Nhưng cuối tuần các nhu cầu về hàng 2.0mm SAE1006 dùng để cán lại tăng lên một chút làm cho các mức giá đã tăng lên ở mức 16.850 vnd/kg.Giải thích cho điều trên, một doanh nghiệp cho biết:”Hàng 2.0 cán lại không còn nhiều, chỉ nằm vào một số doanh nghiệp có thể chỉ tên ra ở đây.Vì vậy khi có nhu cầu mua thật thì việc họ tăng giá cũng là bình thường, ngòai ra chẳng có lý do nào khác cho việc tăng giá này”
Giá bán lẻ công bố vào cuối tuần như sau: 
 
Hàng tấm
Giá(vnd/kg) đã có VAT
(giá bán lẻ)
Hàng cuộn lô lớn
Giá(vnd/kg) đã có VAT
3
16,800
1.5mm
17.300
4
16,800
1.35mm
17.300
5
17.100-17.200
3.0mm
15.900-16.000
6
16,900-17.000
4-12mm
 
8,10
16.500-16.600
2.0 mm
16.700-16.850
12, 14;16
16.900-17.100
2.0 đã xả băng xà gồ
16.800-17.000
25mm
17.400-17.500
 
 
 
 
 

IV.Các yếu tố có thể gây ảnh hưởng đến thị trường tuần 20
-Tỷ giá ổn định trong tuần và ở mức có lợi cho người nhập khẩu.
-Lãi suất tại Việt Nam  đã ổn định tạm thời ở mức cao.
-Giá chào hàng thép cuộn cán nóng ổn định tạm thời vào tuần sau
-Thị trường thép công nghiệp ổn định về giá
-Thị trường thép xây dựng ổn định về giá