Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Thị trường thép thế giới tuần 19

Tổng quan thị trường thép thế giới tuần 19

Dường như hoạt động giao dịch sôi nổi đã không còn biết đến với thị trường thép thế giới trong những tháng gần đây. Khi những yếu tố về chính sách thắt chặt tiền tệ được ban hành cùng với những bất ổn chính trị xảy ra triền miên trên một số quốc gia thì thị trường thép thế giới kể từ đó cũng rơi vào tình trạng giao dịch thưa dần.

Niềm tin thị trường suy yếu, người tiêu dùng trực tiếp không muốn mua vì giá thép quá cao trong khi giới đầu cơ cũng cho rằng quá mạo hiểm để tích trữ vì nguồn tiền giờ đây có hạn.

Đó là chưa kể đến sự phát triển chậm lại của những ngành liên quan như ngành đóng tàu, chế tạo ô tô, đường ống, xây dựng cũng đồng loạt kéo nhu cầu thép về điểm thấp.

Trong tuần này, thị trường thép Châu Á vẫn chưa thật sự đổi sắc, đa phần là vì nhu cầu yếu tác động lên thị trường. Tại Đông Nam Á, khách hàng vẫn chôn chân ngoài thị trường để lại mình nhà cung cấp vùng vẫy gỡ rối.

Ngay cả những thị trường sôi động như ở Âu Châu tuần này cũng phải trở về với quá khứ của 02 tuần trước. Dù không còn bị “phân biệt đối xử” với hàng nhập khẩu như khi đồng EUR tăng mạnh, nhưng khách hàng vẫn chưa thiện cảm với các sản phẩm thép trong tuần này. Duy chỉ có thị trường Thổ Nhĩ Kỳ là được nhu cầu hỗ trợ để giá lần lượt tiến về phía trước.

Châu Á

Đông Nam Á

Dù đã bước sang tuần mới nhưng không khí giao dịch trên thị trường toàn khu vực không có gì thay đổi, mỗi nơi đều có những ảnh hưởng riêng nhưng tất cả đều cán đích chung đó là sự trầm lắng ủ ê vốn có từ trước.

Tại Việt Nam, mặc dù các số liệu từ Hiệp Hội sắt thép Việt Nam cho thấy nhu cầu tiêu dùng thép trong tháng 04 khá tốt và mang đến nhiều hứa hẹn trong tháng 05 này. Song lạm phát leo thang và chính phủ đang dùng nhiều biện phát thắt chặt tiền tệ có thể sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến thị trường thép trong tháng 05 này và tháng 06 tới.

Giá thép cuộn trơn tuần này có giá khoảng 16.300-16.700 VND/kg, còn thép cây có giá 16.350-16.800 VND/kg, cả hai đều chưa có VAT 10%.Giá phôi nội địa Việt Nam hiện có giá xuất xưởng là 14,4-14,6 triệu/tấn (706-716 USD/tấn) chưa bao gồm thuế VAT.

Tại Thái Lan, tình hình bất ổn chính trị khiến các nhà đầu tư không đủ niềm tin dốc vốn vào các dự án xây dựng mới, điều này đã tác động xấu đến nhu nhu cầu thép trong tương lai.

HRC hiện có giá khoảng 25.000-25.500 THB /tấn (825-841 USD/tấn), đã bao gồm thuế VAT.Thép cây kích thước lớn hơn thì ở khoảng 23.000 THB/tấn còn thép cuộn trơn có chứa carbon là 24.000 THB/tấn. Loại cuộn trơn có chứa hàm lượng carbon cao thì có giá 720-730 USD/tấn cfr.

Hiện phôi thanh nội địa được bán với giá khoảng 20.800 THB /tấn, chưa bao gồm thuế VAT.

Tại Philippine, mặc dù các nhà cung cấp nước ngoài đang nhắm đến việc nâng giá chào phôi sang Philippine nhưng do thị trường thép cây suy yếu nên các nhà nhập khẩu Philippine không phản ứng mạnh mẽ trước động thái này. Nghe nói Hàn Quốc hiện đang chào phôi với giá 675-680 USD/tấn cfr, trong khi giá cuối tháng 04 chỉ khoảng 670 USD/tấn mà thôi.

Tại Indonesia, phôi từ Đài Loan đã nhảy lên 675 USD/tấn cfr, còn chào từ Hàn Quốc là 680 USD/tấn cfr. Tuần trước các giá chào chỉ ở khoảng 645 USD/tấn cfr.

Ấn Độ

Thị trường thép Ấn Độ tuần này tiếp tục cho thấy những tín hiệu lạc quan. Nhu cầu tiếp tục được cải thiện dù với mức độ không mạnh nhưng chắc chắn sẽ duy trì ổn định hoặc tăng thêm nữa vì tồn thép của các nhà tiêu dùng trực tiếp đang xuống thấp.

Giá thép hình trong 02 tuần qua đã tăng thêm 300-400 Rs/tấn (7-9 USD/tấn). Giá thép hình chữ V 50x50mm, thép dầm 125x70mm và thép hình chữ U 75x40mm ở khoảng 34.000-35.500 Rs/tấn (761-794 USD/tấn, còn đối với các sản phẩm kích thước lớn hơn như thép hình chữ V 90x90mm, thép dầm 200x100mm và thép chữ U 150x75mm thì có giá khoảng 35.000-36.500 Rs/tấn. Tất cả các giá trên chưa bao gồm thuế tiêu thụ đặc biệt và VAT.

Giá thép cuộn vẫn duy trì ổn định. Trong đó cuộn trơn mềm 6mm có giá phổ biến 34.000-36.000 Rs/tấn (761-806 USD/tấn), còn cuộn trơn cứng (hàm lượng cacbon cao) 6mm có giá vào khoảng 36.000-37.500 Rs/tấn, cả hai chưa bao gồm thuế VAT và thuế tiêu thụ đặc biệt.

Đối với thị trường nguyên liệu thô, quặng xuất khẩu của Ấn Độ đang theo xu hướng giảm vì lực mua từ Trung Quốc không mạnh lắm. Tuy nhiên khả năng các nhà cung cấp Ấn Độ sẽ chỉ điều chỉnh xuống 1-3 USD/tấn mà thôi vì nguồn cung quặng hạn hẹp. Quặng Fe 63.5%/63% xuất qua Trung Quốc hôm đầu tuần có giá giao dịch trung bình khoảng 187-188 USD/tấn cfr.

Tuy nhiên, phế vào Ấn Độ đã tăng giá trong những tuần qua, khoảng 5-7 USD/tấn. Phế vụn tháo dỡ từ container tuần trước được đặt mua từ Mỹ với giá 485 USD/tấn, từ Châu Âu với giá 480 USD/tấn. Còn phế HMS1 từ Trung Đông có giá 465 USD/tấn cfr, HMS2 từ nam Phi giá là 465 USD/tấn cfr.

 Đài Loan

Nhu cầu yếu và giá phế giảm xuống là nguyên nhân chính khiến giá thép cây Đài Loan tụt dốc trong tuần này. Sau những nỗ lực duy trì giá bán ổn định, đến tuần này các nhà sản xuất Đài Loan đã không thể kiên nhẫn hơn trước tình trạng lực mua quá yếu nên đã quyết định hạ giá chào bán nhằm vớt vát lực mua.

Giá thép cây Đài Loan tuần này đã giảm 300 Đài tệ/tấn (10 USD/tấn). Hiện thép cây SD 280 kích thước trung bình  do Feng Hsin Iron & Steel sản xuất có giá xuất xưởng là 20.200 Đài tệ/tấn (706 USD/tấn), còn giá bán của Hai Kwang Enterprise Corp là 18.700 Đài tệ/tấn.

Tương tự, giá thép cuộn cũng được các nhà sản xuất điều chỉnh giảm trong tuần này. HRC và CRC dòng 300-series đã được Tang Eng giảm 2.000 Đài tệ/tấn (70 USD/tấn), kéo giá HRC 304 giao tháng 05 về mức 111.000 Đài tệ/tấn (3.871 USD/tấn), còn CRC 2B 2mm cũng giảm xuống còn 115.000 Đài tệ/tấn. Nhà sản xuất này cũng điều chỉnh giá thép cuộn không gỉ xuất khẩu giảm thêm 70 USD/tấn, tuy nhiên giá chính thức chưa được công bố.

Hàn Quốc

Mùa xây dựng phát triển chậm ảnh hưởng rất lớn đến thị trường thép, nhưng đó không phải là tình trạng của riêng ai mà ngay cả một đất nước phát triển có tầm cở như Hàn Quốc cũng lâm vào hoàn cảnh tương tự. Trong tuần qua, hầu như tất cả các thị trường thép đều không mang lại tính hiệu tốt lành. Dù vậy, các nhà sản xuất vẫn kiên định với kế hoạch nâng giá.

Đối với thị trường thép tấm, hoạt động giao dịch vẫn trầm lắng vì giới thị trường đã kịp gom hàng từ trước do quan ngại rằng Posco sẽ nâng giá. Không chỉ thép nội địa mà các sản phẩm ngoại nhập cũng rất khó hấp dẫn các nhà thu mua vì trên thực tế Hàn Quốc đã nhập một lượng thép tấm khá lớn trong tháng 03 và hiện nguồn cung vẫn đủ dùng.

Thép tấm SS400 20mm tiêu chuẩn thương phẩm tuần này tăng lên mức 1,16 triệu Won/tấn (1.266 USD/tấn. Posco và  Huyandai cũng nâng giá thêm 160.000 Won/tấn (147 USD/tấn) lên 1,11 triệu Won/tấn (1.016 USD/tấn).

Không chỉ mạnh tay nâng giá tại thị trường trong nước mà chiến lược này cũng được áp dụng cho cả thị trường xuất khẩu. Bất chấp Nhật duy trì giá không đổi tại thị trường trong, Posco vẫn quyết định nâng giá xuất khẩu thép sang nơi đây. Trong đó, HRC và thép dầm cách giá cũ là 12,000 won/tấn; CRC và thép tấm dày 15,000 won/tấn và thép cuộn là 14,000 won/tấn.

Ngược lại, thị trường phế liệu Hàn Quốc tuần này không tăng đồng thời cùng giá thép thành phẩm và khả năng giá phế sẽ tiếp tục theo hướng đi xuống trong những tuần tới.

Hyundai Steel đã quyết định giảm giá mua trong tuần này xuống 10,000 won mỗi tấn (9USD/tấn).Dongbu Steel cũng lên kế hoạch giảm giá mua xuống 20,000 won mỗi tấn.

Nhu cầu hiện không mạnh nhưng vẫn có khả năng giá đột ngột tăng trở lại vì mùa hè đang đến gần.Phế H2 hiện dao động trong khoảng 440 – 460,000 won/tấn (407 – 425 USD/tấn).

Nhật Bản

Trong tuần này, Nippon Steel & Sumikin Stainless (NSSC) quyết định điều chỉnh tăng giá CRC austenitic và ferritic nội địa giao giữa tháng 05 thêm 5.000 Yên/tấn (62 USD/tấn) do chi phí nguyên liệu đắt đỏ. Như vậy giá CRC austenitic nhỏ hơn 2mm sẽ tiến đến mốc 400.000 Yên/tấn (4.938 USD/tấn) và CRC ferritic nhỏ hơn 2mm sẽ có giá 280.000 Yên/tấn (3.457 USD/tấn).

Nhu cầu phế không gỉ của Nhật trong quý Một khá tốt nhưng khả năng quý Hai sẽ dịu lại do niken trong thời gian gần gây không theo xu hướng rỏ ràng.

Không được hỗ trợ bởi thị trường thép thành phẩm, giá phế liệu tại Nhật cũng thẳng chân đi xuống. Tokyo Steel lại tiếp tục điều chỉnh giá thu mua phế giảm thêm 1.000 Yên/tấn (12,5 USD/tấn), được áp dụng từ ngày 07/05.

Châu Âu

Dù đã giao dịch trở lại từ sau kỳ nghỉ lễ Phục sinh nhưng thị trường thép Châu Âu vẫn vắng khách đặt mua. Không còn chịu nhiều áp lực từ sự cạnh tranh của hàng ngoại vì tại thời điểm này đồng USD đã dần phục hồi lai sức mạnh, nhưng xem ra các nhà sản xuất Châu Âu chưa thể chấm dứt thời kỳ khủng hoảng vì nhu cầu quá yếu và nếu tình trạng này kéo dài có thể sẽ đóng băng nguồn lợi nhuận của họ.

Do tồn thép còn nhiều và đủ dùng cho nhu cầu của mình nên rất ít khách hàng có ý định mua thép và đa số đều giữ thái độ thờ ơ với các chào bán từ nhà cấp. Dù vậy các nhà sản xuất vẫn quyết định nâng giá thép hình thêm 20 EUR/tấn và khả năng đến cuối tháng 05 giá sẽ tiến đến mức 660 EUR/tấn và có thể cao hơn nữa trong tháng 06.

Thép hình loại một gần đây được giao dịch tại Benelux với giá 640-650 EUR/tấn (908-923 USD/tấn). Nhưng các nhà sản xuất dự định nâng giá lên ngang bằng với giá tại thị trường Đức nơi mà ngành xây dựng đang phát triển khá tốt.

Tuy nhiên, thị trường thép cuộn có khả năng giảm giá khoảng 50-60 EUR/tấn trong quý Ba tới.

Các nhà sản xuất dự kiến nâng giá xuất xưởng HRC giao quý Hai lên 650 EUR/tấn, nhưng quý Ba có thể sẽ giảm xuống vùng 570-600 EUR/tấn (834-877 USD/tấn). CRC quý Ba cũng được điều chỉnh giảm 50-60 EUR/tấn từ mức giá giao dịch trong quý Hai là 700-730 EUR/tấn xuất xưởng.

Thổ Nhĩ Kỳ

Trong khi thị trường thép thế giới ngoi ngóp chờ lực mua thì Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục nhận được những tín hiệu lạc quan từ thị trường trong tuần này.

Nhu cầu cải thiện và nguồn cung thiếu hụt là 02 yếu tố chính lèo lái giá thép tăng mạnh tại thị trường trong nước.

Giá thép cây tại thị trường nội địa tiếp tục tăng lên trong tuần này và đang được chốt ở mức 1.310-1.320 TL/tấn (829-835 USD/tấn), đã bao gồm thuế VAT 18%. Thép cuộn mạ kẽm nhúng nóng dày 0.5mm cũng tiến về mức 950-970 USD/tấn.

Như một lẽ tất yếu, giá phế liệu nhập khẩu lẫn nội địa đều được đà tăng theo giá thép thành phẩm.

Các giá chào từ Mỹ hiện đang tăng 10 USD/tấn lên mức 470 USD/tấn cfr cho phế HMS 1&2 80:20, còn giá phế vụn là 475 USD/tấn cfr.Các giá chào HMS 1&2 70:30 từ EU cũng tăng thêm 10 USD/tấn lên mức 455 USD/tấn cfr.Phế tan chảy tháo dỡ từ tàu cũ hiện đã tiến đến mức giá 445-460 USD/tấn.

CIS

Có thể nói các nhà cung cấp phôi CIS vừa trải qua một tuần dễ chịu nhất từ đầu năm tới nay khi thị trường liên tiếp dành nhiều thắng lợi vì giá bán và nhu cầu đều theo chiều tăng mạnh.

Nhờ thị trường thép dẹt cải thiện nên giá phôi tấm của Nga và Ukarina phục hồi trở lại trong những ngày gần đây, đó là chưa kể đến tồn phôi tấm của các nhà sản xuất có phần hạn hẹp. Niềm tin thị trường tiếp tục được nhân lên do đó khả năng xu hướng giá trong những tháng tới vẫn theo đà tăng.

Giá phôi xuất khẩu sang Biển Đen tuần này đã lên mức 640-660 USD/tấn fob từ đáy thấp cuối tháng 04 là 620-650 USD/tấn fob.

Không chỉ phôi tấm mà thị trường phôi thanh tuần này cũng mang đến nhiều bất ngờ. Với các dự báo Iran sẽ sớm quay lại thị trường và cần gom một lượng hàng khá lớn trong khi nguồn cung phôi CIS hạn chế đã đẩy giá tăng mạnh trong những ngày vừa qua. Tuy nhiên có thể giá đã chạm đỉnh và bắt đầu suy yếu trong vài tuần tới do đồng EUR giảm giá so với đồng bạc xanh Mỹ nên không tránh được tình trạng người mua sẽ tạm ngưng giao dịch.

Giá phôi thanh của Nga và Ukraina xuất khẩu sang Biển Đen đã tiến đến mức 640USD/tấn fob trong tuần này.