Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Những vấn đề đặt ra đối với thị trường tiền tệ 2010

Năm 2010 trong xu thế phục hồi chung của nền kinh tế thế giới, kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực. Điều đáng nói là những chuyển biến này chủ yếu bắt nguồn từ các chính sách vĩ mô nới lỏng của Chính phủ, trong đó có chính sách tiền tệ.

Cơ chế điều hành lãi suất và những vấn đề đặt ra


Từ tháng 6/2002, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã cho phép áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận trong cả huy động và cho vay vốn. Song, từ năm 2008, khi kinh tế trong nước và quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, NHNN đã khống chế trần lãi suất cho vay và sau đó khống chế cả trần lãi suất huy động. Những vướng mắc trong việc áp dụng cơ chế trần lãi suất đã xuất hiện. Đó là hiện tượng các ngân hàng thương mại (NHTM) rất e ngại trong việc cho vay trung và dài hạn vì các khoản vay này được thực hiện trong thời gian dài, chi phí đầu vào cao mà lãi suất cũng không thể cao hơn lãi suất các khoản vay ngắn hạn, cao nhất chỉ bằng 150% lãi suất cơ bản. Do hạn chế về lãi suất đầu ra nên các ngân hàng hoặc là đã cộng thêm các loại phí để nâng lãi suất của các món vay trung dài hạn, hoặc là hạn chế cho vay.

Để giải quyết vấn đề này, ngày 26/2/2010, NHNN đã ban hành thông tư 07/2010/TT-NHNN, chính thức quy định về cho vay bằng VND theo lãi suất thỏa thuận của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Theo đó, các tổ chức tín dụng được cho vay bằng VND theo lãi suất thỏa thuận đối với khách hàng phù hợp với quy định của pháp luật về cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng và trên cơ sở cung - cầu vốn thị trường, mức độ tín nhiệm của khách hàng vay.

Quy định này áp dụng cho vay trung và dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đầu tư phát triển; cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn để trực tiếp phục vụ đời sống của cá nhân, hộ gia đình của khách hàng vay, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.

Nhóm đối tượng cho vay cá nhân bao gồm: cho vay để sửa chữa nhà và mua nhà để ở mà nguồn trả nợ bằng tiền lương của khách hàng vay; cho vay để mua phương tiện đi lại; cho vay để chi phí học tập và chữa bệnh; cho vay để mua đồ dùng và thiết bị gia đình; cho vay để chi cho hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch; cho vay theo phương thức thấu chi tài khoản cá nhân; cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng (Trước đó, ngày 23/1/2009, Thống đốc NHNN có Thông tư số 01/2009/TT-NHNN hướng dẫn về lãi suất thoả thuận của tổ chức tín dụng đối với cho vay các nhu cầu vốn phục vụ đời sống, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng).

Như vậy, hiện nay, việc thực hiện cơ chế cho vay theo lãi suất thỏa thuận đã giải quyết được những vướng mắc của ngân hàng về cơ chế trần lãi suất, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận vốn nhanh hơn. Cho vay theo lãi suất thỏa thuận đồng nghĩa với việc ngân hàng có thể thỏa thuận với khách hàng để cho vay với lãi suất cao hơn lãi suất trần. Đây cũng là một quyết định cần thiết trong việc tiến tới tự do hóa lãi suất. Tự do hoá lãi suất sẽ giúp cân bằng cung - cầu vốn ở một mức lãi suất hợp lý và phản ánh đúng diễn biến của thị trường tiền tệ.

 

bank.jpg

 

Tuy nhiên, việc thực hiện cơ chế này một cách đầy đủ và linh hoạt đòi hỏi Việt Nam phải có một nền tảng về kinh tế vĩ mô ổn định và cơ chế quản lý - giám sát hiệu quả. Nếu không làm được điều này, tình trạng cho vay “nặng lãi” ngay trong hệ thống ngân hàng rất dễ xảy ra và các rủi ro liên quan đến vấn đề tín dụng có thể sẽ tăng lên đáng kể.

Bởi lẽ việc cho vay theo thỏa thuận sẽ không tránh khỏi trường hợp doanh nghiệp (DN) phải vay với lãi suất cao và mỗi DN có mức lãi suất khác nhau do ngân hàng sẽ dựa trên mối quan hệ của DN với ngân hàng thế nào và tiềm năng phát triển ra sao để đưa ra mức lãi suất phù hợp. Ngoài ra, đối tượng thực hiện lãi suất cho vay mở rộng thì việc kiểm soát mục đích các khoản vay phải hết sức nghiêm ngặt để tránh trường hợp dòng vốn chảy ồ ạt vào các thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán chứ không được đưa vào sản xuất kinh doanh.

Trong khi lãi suất cho vay đã từng bước được tự do hóa thì trần lãi suất huy động vẫn chưa được tháo gỡ. Theo NHNN, 2 tháng đầu năm 2010, tín dụng đối với nền kinh tế của toàn hệ thống tăng 1,4% trong khi đó vốn huy động giảm 0,17% (chủ yếu do tiền gửi của tổ chức kinh tế giảm -5,94%, trong khi tiền gửi của dân cư tăng 5,57%). Hệ thống NHTM đang khó khăn trong việc huy động nguồn vốn, đặc biệt là các nguồn vốn trung và dài hạn. Nguyên nhân là do tâm lý lo lắng lạm phát của người gửi tiền nên tập trung vốn vào các kênh đầu tư khác. Ngoài ra, để giải quyết các nhu cầu thanh khoản của một số NHTM trong ngắn hạn nên các NHTM cũng tập trung vào thu hút các nguồn vốn ngắn hạn. Việc huy động vốn của các NHTM hiện nay khá ì ạch do vướng trần huy động 10,5%/năm.

Vì vậy, việc tăng trưởng tín dụng chỉ mạnh ở một vài ngân hàng lớn, có vốn huy động dồi dào và vốn khả dụng lớn. Với tốc độ huy động hiện nay, theo tính toán quý I/2010 tín dụng tăng dưới 1%/tháng, cả năm chỉ tăng khoảng 19-20%. Vì vậy, trong thời gian tới cần phải sớm xóa bỏ quy định về trần lãi suất huy động 10,5%/năm để khơi thông và điều hòa dòng chảy về vốn. Đặc biệt, đưa đường cong lãi suất trở về đúng quy luật, tăng huy động vốn trung-dài hạn (hiện chỉ khoảng 10%) để tăng cho vay trung-dài hạn theo chủ trương kích cầu của Chính phủ.

Điều chỉnh tỷ giá và nguy cơ lạm phát


Từ tháng 2/2010, NHNN đã điều chỉnh hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ nhằm nới lỏng nguồn cung ngoại tệ cho các ngân hàng. Cụ thể là: các ngân hàng chỉ phải trích 4% tổng số dư tiền gửi dưới 12 tháng để dự trữ bắt buộc, thay vì mức 7% hiện hành. Với kỳ hạn trên 12 tháng, các ngân hàng phải dự trữ bắt buộc với mức 2% thay vì 3% hiện hành và áp dụng đối với tất cả các NHTMNN, NHTMCP, ngân hàng 100% vốn nhà nước, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Đối với Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, Qũy tín dụng nhân dân trung ương, ngân hàng hợp tác, tỷ lệ dự trữ bắt buộc với các khoản tiền gửi dưới 12 tháng là 3% và trên 12 tháng là 1%.

 

euro.jpeg
 


Không chỉ hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHNN còn quyết định điều chỉnh tăng mạnh tỷ giá liên ngân hàng từ mức 17.941 đồng/USD lên mức 18.544 đồng/USD vào ngày 10/2/2010, theo đó các NHTM có quyền ấn định giá mua bán ở mức tối đa 19.100 đồng/USD, tăng hơn 3%. Đây là lần thứ 2 trong vòng 3 tháng qua, NHNN điều chỉnh tăng tỷ giá.

Tổng cộng sau 2 lần tăng, tỷ giá đã tăng gần 9%. Đồng thời, quyết định ấn định lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của các tổ chức kinh tế tại ngân hàng ở mức 1% nhằm ngăn chặn tình trạng găm giữ USD của các tổ chức quốc tế, giảm mạnh so với mức 2-4,5% trước đó. Quyết định này của NHNN đã chấm dứt cơ chế thỏa thuận lãi suất tiền gửi USD kéo dài 3 năm qua của các NHTM. Việc điều chỉnh tăng tỷ giá có tác dụng:
 

  • Khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu đồng thời buộc các doanh nghiệp nhập khẩu phải cân nhắc việc sử dụng ngoại tệ, qua đó hỗ trợ kiểm soát nhập siêu;
  • Sau khi NHNN điều chỉnh tỷ giá sát với kỳ vọng tỷ giá của thị trường và quy định trần lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ đối với các tổ chức kinh tế, lợi ích của việc nắm giữ USD đã giảm, do vậy, tâm lý găm giữ ngoại tệ đã phần nào được giải tỏa, thúc đẩy các tổ chức, cá nhân bán ngoại tệ ra thị trường, qua đó giúp các doanh nghiệp có nhu cầu nhập khẩu dễ dàng hơn trong việc tiếp cận với ngoại tệ, tăng cường tính thanh khoản trên thị trường ngoại hối;
  • Thị trường ngoại hối đang có những chuyển biến tích cực hơn, nhiều doanh nghiệp đã bắt đầu bán ngoại tệ, thanh khoản thị trường được cải thiện. Tỷ giá trên thị trường tự do giảm nhẹ so với thời điểm trước khi điều chỉnh tỷ giá, khiến chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tự do được thu hẹp từ mức trên 1.000 đ/USD hiện chỉ còn khoảng 300 - 400 VNĐ/USD.
  • Điều chỉnh tỷ giá đồng Việt Nam là quyết định đúng đắn và kịp thời của NHNN để giải quyết những bất cập trên thị trường, nhằm kích thích nguồn cung ngoại tệ phục vụ cho xuất khẩu và cải thiện nguồn dự trự ngoại hối. Tuy nhiên, quyết định này đang tạo áp lực kép lên tình hình lạm phát nếu không có những biện pháp xử lý kịp thời. Việt Nam trong những năm gần đây luôn ở trong tình trạng nhập siêu, vì thế việc giảm giá của đồng Việt Nam mặc dù tốt cho xuất khẩu nhưng lại ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu.

Nếu quyết định tăng tỷ giá đồng USD liên ngân hàng không giải quyết được tận gốc nhu cầu về ngoại tệ của DN và thị trường ngoại tệ không chính thức vẫn hoạt động như trước đây thì DN vẫn phải mua ngoại tệ bên ngoài với tỷ giá cao. Do chúng ta nhập khối lượng rất lớn nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất, tăng tỷ giá ngoại tệ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, mà người chịu thiệt cuối cùng vẫn là người tiêu dùng. Tác động  độ trễ của các chính sách vĩ mô nới lỏng năm 2009 cùng những tín hiệu phục hồi của tăng kinh tế, sự giảm giá của đồng nội tệ… sẽ làm cho nguy cơ lạm phát, thâm hụt cán cân thanh toán có thể gia tăng mạnh trong năm 2010.

Bên cạnh đó là việc tăng giá một số mặt hàng quan trọng như điện, xăng, nước... đã làm cho chỉ số giá có thể sẽ còn tăng cao hơn nữa trong thời gian tới. Chỉ riêng 2 tháng đầu năm CPI đã lên đến 3,35% trong khi đó mục tiêu lạm phát đề ra cho cả năm là 7%. Do đó, NHNN cần sớm có những biện pháp để bình ổn thị trường tiền tệ cũng như kiểm soát lạm phát ngay từ quý I để tránh tình trạng lạm phát tăng quá cao trong năm 2010.

Thâm hụt cán cân thanh toán


Cán cân thanh toán thâm hụt trước hết do thâm hụt cán cân vãng lai. Thực tế cho thấy, trong những năm vừa qua, thâm hụt thương mại của Việt Nam tăng rất nhanh qua các năm. Năm 2009, thâm hụt thương mại của Việt Nam là 12 tỉ USD. 2 tháng đầu năm 2010, con số này là 1,745 tỷ USD. Trong khi đó, các nguồn bù đắp cho thâm  hụt cán cân vãng lại là kiều hối có xu hướng  bị suy giảm do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới.

Theo Thống đốc NHNN, lượng kiều hối chuyển về trong năm 2009 ở mức 6-6,8 tỷ USD, thấp hơn hẳn mức 7,2 đến 8 tỷ USD của năm 2008. Năm 2010, mặc dù kinh tế thế giới đã có những dấu hiệu phục hồi song dự báo luồng kiều hối vẫn chưa thể tăng trở lại. Ngoài ra, với 2 lần điều chỉnh tỷ giá làm cho VNĐ bị mất giá gần 9% sẽ càng làm cho tình trạng thâm hụt thương mại thêm căng thẳng.

Bên cạnh lí do thâm hụt tài khoản vãng lai gia tăng, cán cân thanh toán còn chịu ảnh hưởng của tình hình phục hồi chậm chạp của đầu tư nước ngoài. Cho dù triển vọng kinh tế thế giới sáng sủa hơn thì nó cũng chưa thể tác động tích cực đến đầu tư ngay trong năm 2010. Do vậy, thâm hụt cán cân thanh toán vẫn sẽ là vấn đề cần quan tâm trong năm 2010.

Tính thanh khoản

Từ những tháng cuối năm 2009 đến trước tết Nguyên đán, nhiều NHTM gặp khó khăn trong thanh khoản do tính thời vụ. Nguyên nhân là do vào những dịp cuối năm, nhu cầu cầu rút tiền thanh toán và vốn sản xuất - kinh doanh của, người dân  rất lớn trong khi huy động vốn của các NHTM tăng chưa kịp nhu cầu đã khiến cho nhiều ngân hàng lâm vào tình trạng thiếu thanh khoản. Các ngân hàng sẵn sàng vay vốn trên thị trường liên ngân hàng với mức lãi suất cao hơn lãi suất tái cấp vốn chứng tỏ các ngân hàng đang có nhu cầu tìm kiếm nguồn tiền lớn hơn.

T heo báo cáo của NHNN, năm 2009 huy động vốn của toàn hệ thống chỉ tăng 25% thì dư nợ đã tăng đến 37,73%. Những con số này càng làm cho vấn đề về tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng trở nên nóng bỏng vì mất cân đối và đầu ra là nguyên nhân khiến các ngân hàng khó tránh khỏi nguy cơ thiếu vốn. Nếu không giải quyết được tình trạng thiếu thanh khoản thì nguy hiểm đối với toàn hệ thống là vấn đề có thể nhìn thấy trước.

Chính vì vậy, từ cuối năm 2009, NHNN đã có kế hoạch hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD. Một mặt, NHNN chỉ đạo các NHTM chỉ sử dụng vốn liên ngân hàng để bù đắp thiếu hụt dự trữ bắt buộc và đảm bảo thanh khoản, tiếp tục hỗ trợ vốn cho thị trường liên ngân hàng ở mức hợp lý khi thừa thanh khoản. Mặt khác, NHNN cũng tăng cường hỗ trợ vốn cho các TCTD thông qua nghiệp vụ thị trường mở với 2 phiên giao dịch/ngày bắt đầu từ ngày 23/12/2009.

Năm 2010, NHNN đã điều hành lượng tiền cung ứng thông qua điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở và tái cấp vốn để đảm bảo an toàn thanh toán của hệ thống ngân hàng và hỗ trợ thanh khoản cho nền kinh tế. Cụ thể: giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ từ 7% xuống 4% đối với kỳ hạn dưới 12 tháng, từ 3% xuống 2% đối với kỳ hạn trên 12 tháng, làm tăng nguồn vốn để cho vay khoảng 500 triệu USD (9.000 tỷ đồng), giảm chi phí huy động vốn khoảng 0,1% và tác động ổn định tỷ giá. Thực hiện nghiệp vụ thị trường mở 2 phiên/ngày, kéo dài thời hạn chào mua giấy tờ có giá từ 14 ngày lên 28 ngày, lãi suất 8%/năm.

Những can thiệp của NHNN đã tăng lượng tiền cung ứng với kỳ hạn thích hợp cho các NHTM, đảm bảo khả năng thanh toán, mở rộng cho vay chi phí sản xuất, nhất là khu vực nông nghiệp, nông thôn. Theo báo cáo của NHNN, vốn khả dụng của các NHTM trước Tết Nguyên đán Canh Dần dư thừa khoảng 13.000 tỷ đồng nhưng hiện nay đã lên đến khoảng 30.000 tỷ đồng. Như vậy, về cơ bản tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng đã được cải thiện. Tuy nhiên, từ sau Tết nguyên đán, lãi suất huy động của VND lại có xu hướng giảm. Ở nhiều kỳ hạn lãi suất huy động chỉ còn trên dưới 10%/năm, không còn đẩy cao đồng loạt ở mức 10,49% như thời gian trước.

Trong khi đó, NHNN lại vừa mới ra thông tư 07 cho phép các NHTM được cho vay theo lãi suất thỏa thuận. Lãi suất đầu ra đã được cởi trói sẽ dẫn tới dư nợ tăng mạnh trong khi đó mức lãi suất huy động giảm sẽ khiến cho ngân hàng khó huy động được vốn và bài toán tìm lời giải cho tình trạng thiếu thanh khoản vốn của hệ thống ngân hàng sẽ có thể là vấn đề nan giải trong thời gian tới.

Nguy cơ nợ xấu của các NHTM


Phát sinh nợ là tất yếu trong hoạt động kinh doanh và hoạt động của ngành ngân hàng cũng vậy, luôn phải đối phó với các khoản nợ, đặc biệt là những khoán nợ khó đòi. Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng nước ta vào khoảng 3% tổng dư nợ tín dụng nếu tính theo chuẩn kế toán Việt Nam song nếu tính theo chuẩn kế toán quốc tế thì con số là khoảng 4-5%. Dù hiện nay mức độ nợ xấu của các NHTM vẫn ở mức có thể kiểm soát nhưng nguy cơ về nợ xấu vẫn luôn là nỗi lo của ngành ngân hàng bởi lẽ tỷ lệ nợ xấu thấp không đồng nghĩa với khối lượng nợ xấu thấp (do tỷ lệ nợ xấu được tính trên tổng dư nợ tín dụng, khi ngân hàng càng phát triển hoạt động tín dụng thì khối lượng nợ xấu càng cao).

Chính sách tiền tệ nới lỏng năm 2009 cộng với việc thực hiện cơ chế cho vay theo lãi suất thỏa thuận sẽ khiến nảy sinh vấn đề rủi ro về đạo đức của cán bộ ngân hàng và nợ xấu có thể sẽ tăng cao. Do lo ngại về các khoản nợ xấu, từ nửa cuối tháng 10 NHNN đã yêu cầu các ngân hàng phải chấm dứt cho vay chứng khoán cho dù theo số liệu của NHNN, tính đến thời điểm cuối năm 2009, tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống khoảng chỉ ở mức 2,46%.

Bước sang năm 2010, mặc dù nền kinh tế đã có những dấu hiệu phục hồi song những khó khăn vướng mắc, đặc biệt là các vấn đề trong thị trường tài chính – tiền tệ vẫn còn nhiều. Vì vậy, việc sử dụng và điều hành chính sách tiền tệ cần phải linh hoạt và thận trọng nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra.

NHNN cần tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ một cách linh hoạt, chủ động và thận trọng để kiểm soát mức tăng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng đối với nền kinh tế tăng khoảng 25%, lãi suất và tỷ giá phù hợp với mục tiêu và điều kiện kinh tế vĩ mô, lượng tiền cung ứng bổ sung cho lưu thông ở mức hợp lý để đảm bảo khả năng an toàn thanh toán hệ thống ngân hàng, hỗ trợ thanh khoản cho nền kinh tế.

Saga

ĐỌC THÊM