Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Tuần 45/2021: Dự báo xu hướng thép TQ

Giá cả vẫn trên đà giảm ở trong nước và xuất khẩu do áp lực tiêu thụ chậm trong mùa đông và giá nguyên liệu thô giảm, khiến tâm lý thị trường lo ngại và người mua chần chừ. Trong khi giá cả trong nước giảm chậm lại thì giá xuất khẩu có dấu hiệu giảm nhanh để giải phóng áp lực dư cung trong nước.

DIỄN BIẾN THỊ TRƯỜNG THÉP DÀI

Các nhà máy ở tỉnh Sơn Tây, miền bắc Trung Quốc đã yêu cầu các nhà cung cấp giảm giá than cốc 200 NDT/tấn (31 USD/tấn) để giảm bớt sức ép lên biên lợi nhuận thép của họ khi nhu cầu yếu kém vào mùa đông. Các nhà máy ở Bắc Trung Quốc phải đối mặt với áp lực bán hàng ngày càng nặng nề do hàng tồn kho tăng cao trong thời gian nhu cầu mùa đông giảm, kéo giá giảm trong tuần.

Tuy nhiên, đến ngày thứ năm thì giá cả phục hồi nhẹ nhờ tồn kho hàng tuần giảm, các nhà máy ngừng hoạt động để bảo trì và các dấu hiệu nới lỏng chính sách đối với lĩnh vực bất động sản. Dự trữ thép cây và thép cuộn cán nóng của các công ty thương mại giảm khoảng 370,000 tấn trong tuần này, nhanh hơn mức giảm 250,000 tấn của tuần trước, cho thấy nhu cầu không yếu kém như dự kiến.

Thị trường đang xôn xao rằng chính quyền trung ương Trung Quốc có thể nới lỏng các quy định đối với các nhà phát triển bất động sản để giúp các công ty dễ dàng mua lại tài sản từ các đối thủ cạnh tranh mắc nợ. Điều này sẽ cho phép ngành này củng cố và duy trì các dự án đúng tiến độ, điều này sẽ hỗ trợ nhu cầu thép. Nguồn cung thế chấp cũng có thể tăng lên.Các nhà máy lớn nhất của Trung Quốc đã cắt giảm sản lượng vào cuối tháng 10 xuống mức thấp nhất kể từ đầu năm 2018.

 

So với tuần trước, giá thép cây giao ngay HRB400 tại Thượng Hải giảm 100 NDT/tấn xuống 4,800 NDT/tấn. Giá tuy giảm nhưng đà giảm đã chậm lại so với mức 220 NDT/tấn trong tuần trước.

Trên thị trường xuất khẩu, các nhà sản xuất giảm về 780-800 USD/tấn fob trọng lượng lý thuyết, giảm 50 USD/tấn so với tuần trước.

DIỄN BIẾN THỊ TRƯỜNG THÉP DẸT

Tâm lý tiêu cực tràn sang các thị trường phía đông Trung Quốc từ mức giảm 240 NDT/tấn đối với thép băng cán nóng ở Đường Sơn hôm thứ Ba. Một nhà sản xuất ống lớn ở Thiên Tân cho biết họ không thể nhận được hợp đồng đặt trước từ các nhà cung cấp từ ngày 9/11 do nhu cầu ống hàn quá yếu kém nên áp lực dự trữ lớn. "Các nhà máy đã bắt đầu tích cực tìm kiếm đơn đặt hàng trong bối cảnh doanh số bán ra yếu," một thương nhân ở phía đông Trung Quốc cho biết.

Baosteel giảm giá xuất xưởng HRC 300 NDT/tấn và giá xuất xưởng thép tấm 200 NDT/tấn cho các đợt giao hàng tháng 12, thấp hơn nhiều so với dự kiến sau khi giá HRC xuất xưởng trong nước giảm 1,150 NDT/tấn kể từ ngày 11/10.

Tuy nhiên, tồn kho HRC do các nhà máy và thương nhân nắm giữ đã giảm hơn 40,000 tấn trong tuần này, nhanh hơn mức giảm 20,000 tấn vào tuần trước, trong khi sản lượng của các nhà máy tăng so với tuần trước. Dữ liệu hàng tồn kho cho thấy nhu cầu thị trường mạnh hơn dự kiến, đóng góp vào sự phục hồi của giá hôm thứ Năm.

 

Tại thị trường giao ngay, giá HRC Q235B tại Thượng Hải giảm 150 NDT/tấn so với tuần trước xuống 4,850 NDT/tấn.

Giá trong nước giảm và nhu cầu chậm gây áp lực cho thị trường xuất khẩu. Một số nhà máy lớn của Trung Quốc đã được phép nhận đơn đặt hàng xuất khẩu cho các lô hàng tháng 12 và tháng 1 để giảm bớt tình trạng dư cung trên thị trường nội địa trong bối cảnh nhu cầu trong nước yếu. Nhưng những đơn đặt hàng này có thể sẽ được tính là phân bổ xuất khẩu cho năm 2022, với kết quả là lượng xuất khẩu của năm nay không vượt quá khối lượng của năm nay.

Đó được coi là lý do khiến nhiều nhà máy tái xuất hiện trên thị trường đường biển và khả năng thuế xuất khẩu thép Trung Quốc ít nhất phải điều chỉnh trước tháng 2/2022. Người mua đường biển tỏ ra thận trọng khi họ dự đoán giá xuất khẩu và nội địa Trung Quốc sẽ giảm thêm.

Đối với HRC SAE, các thương nhân cắt giảm giá chào hàng xuống còn 810 usd/tấn cfr Việt Nam cho lô hàng từ tháng 1 và tháng 2 từ 820 usd/tấn cfr Việt Nam, thấp hơn so với chào giá của các nhà máy Trung Quốc ở mức 840-850 usd/tấn cfr Việt Nam, giảm khoảng 30-40 USD/tấn so với tuần trước. Người mua Việt Nam đang chờ đợi các chào bán hàng tháng mới của Formosa và Hòa Phát nên còn im lặng. Các nhà máy này có thể trì hoãn công bố giá chào trước áp lực giá giảm nhanh từ Trung Quốc.

TRIỂN VỌNG GIÁ NGẮN HẠN

Giá thép Trung Quốc dự kiến sẽ theo xu hướng giảm về cuối năm, nhưng giá cả biến động nhờ các cắt giảm sản xuất, hạn chế dư địa giảm.

Yếu tố hỗ trợ gồm:

_Sản lượng thép giảm.

_ Giá thế giới ở mức cao.

_Chi phí năng lượng tăng.

_Nhu cầu dần hồi phục tại các thị trường người mua Châu Á sau đợt dịch.

Yếu tố trở ngại:

_ Chính phủ hạ nhiệt giá nguyên liệu thô.

_Cắt giảm sản lượng kéo giá nguyên liệu thô giảm.

_Tiêu thụ giảm vào mùa thấp điểm.

_Dịch bệnh, thiếu điện làm giảm hoạt động sản xuất.

Dự kiến chào giá xuất khẩu HRC Trung Quốc giảm và sôi nổi hơn trong tháng 11 do giá trong nước giảm, nhưng được hỗ trợ phần nào từ giảm sản xuất trong nước.

Chào bán hiện tại cho HRC SAE từ các nhà máy nhỏ và thương nhân đã xuống 810-840 USD/tấn cfr Việt Nam và sẽ còn giảm nữa trong tháng 11 này, dự kiến mất thêm tầm 20-30 USD/tấn, song có thể phục hồi nhẹ vào tháng 12 lên khoảng 850 USD/tấn cfr khi sản lượng nội địa giảm và nhu cầu trở lại.

SẢN LƯỢNG 

Dữ liệu chính thức của Cơ quan Thống kê Quốc gia Trung Quốc (NBS) cho thấy sản lượng thép thô của Trung Quốc trong tháng 9/2021 chỉ đạt 73.75 triệu tấn, sụt giảm mạnh 11.4% so với hồi tháng 8 trước đó và giảm tới 21.2% so với cùng kỳ năm ngoái.

Con số trên cũng là mức sản lượng thép thô thấp nhất kể từ hồi tháng 12/2018 đến nay. Sản lượng gang trong tháng 9/2021 của Trung Quốc cũng giảm mạnh 16.1% so với cùng kỳ năm 2020, xuống còn 65.19 triệu tấn. Tuy nhiên, dữ liệu cũng cho thấy tính chung 9 tháng đầu năm nay, sản lượng thép thô của Trung Quốc đã đạt 806 triệu tấn, tăng 2% so với cùng kỳ năm ngoái.

 

Hoạt động sản xuất thép của Trung Quốc trong thời gian qua đã chịu ảnh hưởng nghiêm trọng bởi tình trạng thiếu hụt nguồn cung điện diện rộng và các biện pháp cắt giảm lượng phát thải khí nhà kính. Công suất hoạt động của các nhà máy sản xuất thép sử dụng công nghệ lò hồ quang điện tại Trung Quốc trong tháng 9 vừa qua chỉ đạt 60%, thấp hơn nhiều so với mức 80% cùng kỳ năm ngoái.

Trong khi đó, công suất hoạt động của các nhà máy sử dụng công nghệ lò cao chỉ đạt 73%, thấp hơn mức 88% ghi nhận hồi tháng 9/2020.

Do sản lượng 9 tháng đầu năm đã tăng 2% so với cùng kỳ năm ngoái nên với mục tiêu giữ sản lượng không quá 1.065 tỷ tấn năm 2020, nước này sẽ mạnh tay cắt giảm hơn nữa về cuối năm. Sản xuất cũng bị ảnh hưởng do thiếu điện nên dự kiến về dưới mức 70 triệu tấn trong tháng 10.

QUẶNG SẮT

Giá quặng sắt giảm trong tuần do nhu cầu tiêu thụ chậm và giá thép giảm, trong khi hàng dự trữ tại cảng cao. Tuy nhiên, giá cả hồi vào ngày thứ năm, lên cao hơn mức cuối tuần trước, theo sự gia tăng giá thép Trung Quốc nhờ các kỳ vọng về Chính quyền trung ương Trung Quốc có thể nới lỏng các quy định đối với các nhà phát triển bất động sản để giúp các công ty dễ dàng mua lại tài sản từ các đối thủ cạnh tranh mắc nợ. Điều này sẽ cho phép ngành này củng cố và duy trì các dự án đúng tiến độ, điều này sẽ hỗ trợ nhu cầu thép và nhu cầu quặng. Bên cạnh đó, tâm lý thị trường thép được hỗ trợ từ lượng tồn kho của các nhà máy và thương nhân giảm với tốc độ nhanh hơn so với tuần trước. Nhiều nhà máy đang tiến hành các công việc bảo trì, với tỷ suất lợi nhuận đang bị áp lực trong thời gian gần đây.

So với tuần trước, giá cả đã nhích khoảng 1 USD/tấn lên mức 93.45 USD/tấn cfr Thanh Đảo.

 

Xét về triển vọng tới cuối năm, giá tiếp tục biến động giảm. Vì sao:

_ do sản xuất thép của Trung Quốc cắt giảm mạnh hơn nữa trong thời gian còn lại của năm, làm giảm nhu cầu quặng.

_thị trường bất động sản chậm lại trong Q4 làm giảm nhu cầu thép xây dựng, giảm quặng sắt.

_nguồn cung quặng dần tăng trở lại sau khi gián đoạn năm qua do thiên tai, tai nạn vỡ đập.

_tâm lý thị trường suy yếu từ các động thái hạ nhiệt giá hàng hóa Chính phủ.

Giá cuối năm về tầm 90 USD/tấn.

Thép dài còn gọi là thép xây dựng (sử dụng trong ngành xây dựng) như thép hình, thép thanh và thép cây.

Thép dẹt được sử dụng trong ngành công nghiệp nặng như đóng tàu, sản xuất ô tô, sản xuất các máy móc thiết bị công nghiệp, bao gồm các loại thép tấm, lá, cán nóng và cán nguội.

Lưu ý:  Dự báo trên chỉ mang tính tham khảo. Quý khách hàng nên tham khảo thêm nhiều nguồn tin khi quyết định mua bán.