Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 29/09/2014

Giá nhập khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ vào Mỹ vẫn bình ổn

Giá thép cây đã tương đối ổn định tại mức 595 USD/tấn CFR Houston kể từ khi Uỷ Ban thương mại quyết định không chống bán phá giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ.

Sau quyết định của Uỷ Ban thương mại Mỹ, các nguồn tin dự báo giá nhập khẩu sớm muộn gì cũng sẽ giảm. Một thương nhân đang nán lại các đơn hàng để chờ gặp gỡ  với các nhà cung cấp của Hiệp Hội các nhà máy và xuất khẩu thép cây Quốc tế tại Berlin tuần này.

Một thương nhân đồng tình rằng giá chào thấp nhất mà Ông được nghe là 595 USD/tấn CFR Houston và gần đây vẫn chưa mua hàng. Ông cho biết đây không phải là thời điểm tốt để mua hàng vì các vấn đề nguồn cung và thuế tồn kho cuối năm ở Houston.

Một thương nhân khác cho biết đã đặt mua thép cây nhập khẩu, và có thể trả cao hơn một ít do các lô hàng sẽ tới cuối tháng 10 hoặc đầu tháng 11. Gía chào thép cây sau đó có thể giảm nhẹ do giá phế giảm.

Platts vẫn giữ giá thép cây tại mức 595-606 USD/tấn CIF Houston trong ngày cuối tuần qua.

Hai thương nhân đầu tiên đồng tình rằng giá bán thép cây nhập khẩu tới các đại lý phân phối và người tiêu thụ cuối đã bình ổn, nhưng có thể thay đổi khi tàu cập bến trong vài tuần tới. Thương nhân đầu tiên cho biết nguồn cung vài loại thép cây đã thiếu hụt và Ông có thể bán thép cây Thổ Nhĩ Kỳ hơn mức 661 USD/tấn giao bằng xe tải đối với vài loại cụ thể. Mặc dù trong 2 tuần, thương nhân cho biết sẽ có vài khách hàng trả ít hơn mức 639 USD/tấn đối với thép cây, và tin rằng giá sẽ ở mức này hoặc ít hơn đối với hàng đến cuối năm và đầu tháng 1.

Thương nhân thứ hai đồng tình rằng thép cây sẽ đạt mức 639-655 USD/tấn giao bằng xe tải và có thể ít hơn mức 639 USD/tấn ở Houston.

Giá quặng sắt tuần qua thấp hơn nhưng có nhiều dấu hiệu ổn định

Thị trường quặng sắt giao ngay cuối tuần trước khá ổn định với sự xuất hiện của một số người quan tâm thu mua, mặc dù tâm lý vẫn còn bi quan về lâu dài.

Platts định giá 62% Fe IODEX ở mức 79,25 USD/dmt CFR miền bắc Trung Quốc hôm 26/9, không đổi so với ngày trước đó nhưng lại giảm 2,75 USD/dmt hay 3,4% so với thứ sáu trước.

Giá giao ngay tham khảo của The Steel Index cho quặng sắt 62% chốt ở mức 78,6 USD/dmt CFR Thiên Tân trong ngày thứ Sáu, giảm 3,8% so với tuần trước đó.

Hoạt động giao dịch trầm lắng khi sắp hết tuần, nhiều người nán lại việc mua giao ngay nhưng điều này đã không ngăn được nỗ lực của người bán nhằm đẩy hàng đi trước lễ Quốc khánh.

“Mọi người đang cố gắng rất nhiều để bán được hàng, và điều này là hiển nhiên vì người bán đang tăng cường những nỗ lực để kêu gọi người mua tới đàm phán”.

Nhiều người mua trực tiếp đã hoàn tất việc tích trữ của họ cho tuần nghỉ lễ nhưng một nhà sản xuất ở miền trung cho hay thị trường đang ổn định khi nhìn thấy một vài sự phục hồi trở lại trong ngày thứ sáu.

Nhưng một số người khác thì cho rằng là lẽ tự nhiên khi giá bình ổn sau một thời gian dài suy yếu, sự quan tâm của người mua vẫn còn hạn chế do họ lưỡng lự khi cam kết mua quặng sắt giao ngay với tình hình thị trường thép bất ổn như hiện nay.

 

Giá chào thép dây Thổ Nhĩ Kỳ tới Mỹ giảm cùng giá phế

Giá chào xuất khẩu thép dây Thổ Nhĩ Kỳ tới Mỹ đã giảm trong đôi tuần qua mặc dù có ít giao dịch được chốt.

Một thương nhân cho biết có thể mua thép dây chất lượng công nghiệp ít cacbon Thổ Nhĩ Kỳ tại mức giá 625-635  USD/tấn CFR Houston giao tháng 12. Đầu tháng 9, Ông cho biết giá chào từ Thổ Nhĩ Kỳ là 640 USD/tấn. Kể từ đó, giá phế đã suy yếu và chưa có bất cứ động lực tăng giá nào trên thị trường.

Ông cũng cho biết đã chưa đặt mua lô hàng nào từ Thổ Nhĩ Kỳ gần đây, và đang chờ sự xúc tác từ các nhà máy.

Một thương nhân khác cho biết có thể đặt mua thép cây tại mức 630 USD/tấn CFR Houston đối với thép dây dạng lưới giao cuối tháng 11 giữa tháng 12 tại cảng Bờ Vịnh. Ông cho biết thép dây chất lượng công nghiệp có thể cao hơn 5-10 USD/tấn.

Một nguồn tin nữa đồng tình rằng người mua thì vẫn kiên trì nhưng các nhà máy đã đói.  Ông đồng ý giá thép dây ít cabon hiện đạt mức 630 USD/tấn CFR Houston và có thể hoạt động  ở một số vùng với ít lợi nhuận. Ông hy vọng rằng các nhà máy có thể giảm giá chào xuống trong tuần này.

Giá HRC Mỹ giảm

Giá HRC Mỹ đã giảm nhẹ trong ngày hôm qua theo sau giá chào bán giảm từ các trung tâm dịch vụ và tâm lý lo lắng của các nhà máy.

Một trung tâm dịch vụ cho biết giá HRC dường như đang chông chênh ở mức 640-650 USD/tấn mặc dù các nhà máy cố gắng hết sức giữ giá ở mức 660 USD/tấn xuất xưởng.

Mộ trung tâm dịch vụ Midwest cho biết đã đặt vài đơn hàng gần đây tại mức 660 USD/tấn. Một người mua đang tìm kiếm ít nhất 1.000 tấn tại mức giá 650 USD/tấn.

Có ít nhất một người mua gần đây đã mua được hàng tại mức 640 USD/tấn nhưng với khối lượng lớn hơn 5.000 tấn. Các trung tâm dịch vụ đã giảm giá bán nhằm thu hút thêm khách hàng  cho các đơn hàng lớn. Đồng thời, các nhà máy cũng  đang tìm kiếm đơn hàng để giảm hàng tồn trước Lễ. Tuy nhiên, giá nguyên liệu thô giảm ngăn cản các nhà máy tăng giá chào bán thép.

Platts hạ giá HRC xuống 655-665 USD/tấn trong khi vẫn giữ giá CRC tại mức 780-790 USD/tấn xuất xưởng Midwest.

Các nhà máy thép cây Nga cắt giảm giá lần đầu tiên kể từ tháng 12/2013

Các nhà máy thép cây Nga sau khi duy trì giá bán thép cây tháng 10 không đổi thì đã nhận ra rằng sẽ phải hạ giá xuống hướng về giữa tháng.

Cho tới nay, chỉ có 1 nhà máy giảm giá chào xuống 350 Rub/tấn (9 USD/tấn). Nhà máy này tin rằng các nhà máy khác không sớm thì muộn cũng phải hạ giá xuống do khối lượng bán hàng của nó đủ mạnh để tác động tới giá thị trường.

Mức cắt giảm trên được thúc đẩy từ dấu hiệu suy yếu của thị trường bán lẻ sau khi các nhà phân phối lớn của Maxcova buông  giá để giải phóng hàng tồn. Điều này đã kéo giá thép cây xuống mức 25.800-26.000 Rub/tấn từ cuối tháng 8. Mức giá này thậm chí còn thấp hơn giá mua của các nhà môi giới trong tháng 8 khi mà họ trả mức 25.900-26.150 Rub/tấn đối với thép cây 12mm .

Một nhà máy khác cũng cho biết đang cân nhắc giảm giá xuống 300-350 Rub/tấn. Đây là lẫn giảm đầu tiên kể từ tháng 12 năm 2013, giá bán thép cây các nhà máy đã tăng mỗi tháng kể từ đầu tháng 2 năm nay, nhờ vào sức mua tăng 9% trong giai đoạn tháng 3-8 so với cùng kỳ năm ngoái, lên 4.9 triệu tấn. 

Dựa vào giá cắt giảm, giá thép cây 12mm và 14mm tháng 10 giao tới Maxcova hiện có sẵn tại mức 25.800 Rub/tấn (660 USD/tấn) và 25.400 Rub/tấn (650 USD/tấn). Nếu không tính thuế VAT 18% thì giá sẽ đứng tại mức 21.860 Rub/tấn (560 USD/tấn) và 21.525 Rub/tấn (550 USD/tấn). Gía thép cây Nga theo Platts đạt mức 21.525-21.860 Rub/tấn (550-560 USD/tấn) CPT Maxcova, giảm từ mức 21.750-22.100 Rub/tấn.

Giá niken sẽ đạt mức trung bình 20.000 USD/tấn trong năm 2015 do nguồn cung hạn chế 

Giá niken trên sàn London Metal Exchange có khả năng được giao dịch trong phạm vi 17.000-23.000 USD/tấn trong năm tới, Carey Smith, nhà phân tích nghiên cứu thuộc Alto Capital phát biểu hôm thứ sáu.

“Giá sẽ đạt trung bình quanh mức 20.000 USD/tấn, phần lớn là do lệnh cấm xuất khẩu quặng niken của Indonesia và một sự sụt giảm mạnh theo dự đoán trong nguồn cung vào đầu năm 2015”. Giá trung bình của năm nay được dự đoán sẽ đạt 18.000 USD/tấn.

Indonesia đã cấm xuất khẩu quặng đá ong niken từ tháng 01. Niken trên sàn LME đã và đang được giao dịch trong một phạm vi hẹp từ 18.200-20.000 USD/tấn, tăng gần 40% so với mức 14.000 USD/tấn của đầu năm nay nhưng lại giảm so với mức cao đỉnh điểm 21.500 USD/tấn hồi đầu tháng 05. Hôm thứ Năm, giá niken trên sàn LME cán mốc 17.210 USD/tấn.

Trung Quốc là nước phụ thuộc nhiều vào quặng từ Indonesia để sản xuất gang thỏi niken, nước này đã dự trữ khoảng 25-30 triệu tấn quặng nhưng đang vơi dần đi và ông Smith dự báo lượng nguyên liệu dự trữ sẽ chạm đáy vào đầu năm tới.

“Hiện nay, Trung Quốc đang nhập khẩu quặng từ Philippines, nhưng lại là quặng chất lượng thấp vì vậy họ đang trong quá trình xây dựng các nhà máy luyện kim ở Indonesia nhằm đáp ứng nhu cầu NPI của mình”.

Khoảng 6-10 nhà máy NPI hiện đang đợi sự phê duyệt của ở Indonesia, ông Smith dự đoán không phải tất cả các dự án đều được tiếp tục thi công. Các nhà máy sớm nhất sẽ đi vào hoạt động vào cuối năm 2015.

Ông Smith không nghĩ là Philippines sẽ cấm việc xuất khẩu quặng niken, có một vài điều có thể được cân nhắc sau khi có một dự thảo đề xuất để thay đổi hoạt động khai thác mỏ được đệ trình vào năm tới. Philippines đang được hưởng lợi từ lệnh cấm của Indonesia. 

Các nhà máy HRC tăng giá để bù lỗ đồng Rub giảm

Các nhà máy HRC Nga hiện tại đã tăng giá HRC sản xuất tháng 10  thêm 450-600 Rub/tấn (12-15 USD/tấn) tức 2.4-3% so với tháng trước để bù lại phần tổn thất do đồng Rub giảm.

Các nhà máy trong nước đã yêu cầu các đại lý phân phối trả mức 24.260-24.370 Rub/tấn (621-623 USD/tấn) đối với HRC dày 2mm và 23.660-23.720 Rub/tấn (605-606 USD/tấn) đối với HRC dày 4mm giao tới Maxcova, cùng sản xuất tháng 10. Hai bên đang đàm phán tại mức giá 20.560-20.650 Rub/tấn (526-528 USD/tấn) chưa tính 18 % VAT, đối với loại dày 2mm và 20.050-20.100 Rub/tấn (513-514 USD/tấn) đối với loại 4mm CPT Maxcova.

Tuy nhiên, các nhà máy thậm chí còn tăng giá cao hơn nữa để bù đắp lại tổn thất từ sự mất giá của đồng Rub. Trong thời gian từ ngày 26/8-26/9, đồng nội tệ Nga đã suy yếu từ mức 36.1-38.6 Rub/dolla. Chỉ riêng điều này thôi đã làm hao hụt 30 USD/tấn khi tính giá HRC bằng đồng bạc xanh mặc dù giá trị đồng Rub vẫn không đổi và giá mục tiêu phải thu hẹp lại còn 18 USD/tấn.

Tuy nhiên, các nhà phân phối thép đang cự tuyệt giá tăng do nguy cơ xói mòn lợi nhuận khi mà sức mua từ các người tiêu thụ cuối thấp. Họ tin rằng giá tăng chỉ tồn tại được trong một thời gian ngắn và giá sẽ giảm trong tháng 11-12. Một vài nguồn tin cho biết nếu giá tăng là bắt buộc thì họ sẽ mua ít hơn.

Platts vẫn duy trì giá HRC 2-4mm tại mức 19.550-20.100 Rub/tấn (500-514 USD/tấn) và 18.950-19.510 Rub/tấn (485-499 USD/tấn) CPT Maxcova tuần trước. 

Đối với CRC 1mm sản xuất tháng 10, các nhà máy đã tăng giá thành công thêm 650 Rub/tấn  (17 USD/tấn) so với tuần trước đó, lên mức 22.500-22.600 Rub/tấn (575-578 USD/tấn) CPT Maxcova. Với thuế VAT, giá CRC đạt mức 26.550-26.670 Rub/tấn (679-682 USD/tấn). Tuy nhiên, mặc dù giá đã tăng 3%, nhưng với sự suy yếu của đồng Rub thì giá CRC tính bằng đồng dolla đã giảm 15 USD/tấn so với tháng trước.

Baosteel, Jiuquan Steel giảm giá mua FeCr cho tháng 10 

Đại diện Baosteel xác nhận hôm thứ sáu rằng nhà máy đã giảm giá mua tháng 10 cho ferrochrome hàm lượng cacbon cao xuống 50 NDT/tấn (8 USD/tấn). Jiuquan Iron & Steel cũng hạ giá mua xuống mức tương tự trong cùng ngày.

Theo đó, giá mua tháng 10 của cả Baosteel và Jiuquan Steel là 6.400 NDT/tấn (tương đương  79 cents/lb). Baosteel thanh toán bằng tiền mặt còn Jiuquan Steel thì bằng hối phiếu chấp nhận thanh toán qua ngân hàng. Giá này đã bao gồm phí vận chuyển và VAT 17%.

Nhiều nhà máy thép không gỉ đang hoạt động thua  lỗ và phải gây sức ép để giá nguyên liệu thấp hơn nhằm giảm bớt chi phí.

Thị trường vẫn đang đợi giá mua tháng 10 của Shanxi Taigang Stainless Steel và hầu hết các nhà quan sát đều dự đoán giá cũng sẽ giảm 50 NDT/tấn. Giá mua tháng 09 của Taigang là 6.200 NDT/tấn.

Platts không thể liện lạc với đại diện Jiuquan Steel để có lời bình luận. 

Giá phế nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ có thể suy yếu hơn nữa : TSI

 Xu hướng suy yếu trên thị trường phế nhập khẩu Thổ Nhĩ Kỳ có thể tiếp tục trong những tuần tới trước khi bước vào mùa đông, thời điểm giá phế tăng mạnh nhờ nguồn cung hạn chế.

Giá phế nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm dần kể từ năm 2011. Trong năm 2011, giá phế trung bình đạt mức 458 USD/tấn, sau đó giảm còn 411 USD/tấn trong năm 2012. Gía phế nhập khẩu trung bình năm ngoái là 381 USD/tấn và trong 9 tháng qua đã giảm còn 377 USD/tấn.

Có nhiều lý do đằng sau sự suy yếu này nhưu nguồn cung tăng, nhu cầu tiêu thụ trên thị trường thép thành phẩm thấp, thị trường Châu Âu chậm, các điều tra chống bán phá giá mà Thổ Nhĩ Kỳ phải đối mặt trên thị trường thế giới, bất ổn tại Trung Đông làm gián đoạn nhu cầu tiêu thụ từ Iraq, Bắc Phi cũng như tính cạnh tranh tăng và sự suy yếu trên các thị trường thương phẩm khác như giá quặng đã mất 37% kể từ đầu năm.

Hướng sự chú ý mối tương quan giưã giá phế và thép thành phẩm, đặc biệt là thép cây. Khi giá phế giảm, giá thép cây theo rất nhanh chóng, nghĩa là các nhà máy khó mà thu được lợi nhuận. 

Giá quặng duy trì ở mức thấp trong một thời gian dài có nghĩa là các nhà máy BOF sẽ bán giá rẻ hơn so với các nhà máy EAF. Gía phôi thanh Trung Quốc rẻ cũng được quan tâm hơn và trở thành nguyên liệu thay thế, làm giảm nhu cầu tiêu thụ đối với các sản phẩm bán thành phẩm.

Trung Quốc: Giá nhập khẩu quặng chrome giảm 

Platts định giá giao ngay của quặng chrome (48-52% Cr) xuất xứ Nam Phi là 80-81 cents/lb CIF Trung Quốc trong ngày thứ sáu tuần trước, giảm từ 81-82 cents/lb CIF của một tuần trước đó, do chào giá nghe nói và giá chốt trên thị trường thấp hơn trong bối cảnh sức mua suy yếu. Giá đã không đổi kể từ ngày 16/5 tới nay.

Cùng ngày, giá ferrochrome hàm lượng cacbon cao xuất xứ Ấn Độ (58-60% Cr) vẫn không đổi so với tuần trước đó và duy trì mức 82-84 cents/lb CIF Trung Quốc.

Chào giá quặng chrome nghe nói từ 80-81 cents/lb CIF vào tuần trước. So với tuần trước đó, nhiều người cũng cho biết mức giá này là có thể chấp nhận cho cả người mua và bán vào tuần trước.

Giá nhập khẩu quặng chrome đang chịu sức ép từ nguồn cung dồi dào trên thị trường, nhu cầu chậm chạp cùng với giá hợp đồng quý IV được chốt ở Châu Âu và Nhật Bản thấp hơn. Khác với nhu cầu trì trệ ở Trung Quốc, một số nhà máy lớn ở Đông Á cũng chưa bắt đầu các cuộc thương lượng hợp đồng quý 4 và không vội mua vì hàng tồn còn nhiều.

Ngược lại, giá ferrochrome Ấn Độ đang tăng do nguồn cung hạn chế vì thiếu hụt quặng chrome và giá trên thị trường Ấn Độ cao, nơi các nhà sản xuất đang chọn cách bán ra trong nước thay vì xuất khẩu.

Giá trên thị trường ferrochrome Trung Quốc vẫn còn bị sức ép và tâm lý tiếp tục suy yếu, nhất là sau khi hai nhà sản xuất thép không gỉ lớn ở trong nước giảm giá mua tháng 10 của họ vào thứ sáu tuần trước.

Giá thép không gỉ austenite cũng tiếp tục giảm do niken đi xuống và sức mua trì trệ, trong khi giá thép không gỉ ferrite lại đang tăng, các nhà máy Trung Quốc đang cố gắng gây áp lực để giá nguyên liệu thấp hơn nhằm giảm bớt chi phí và giảm thiểu thiệt hại.

“Giá  ferrochrome Trung Quốc có thể giảm sâu hơn nữa. Nhưng mọi việc sẽ trở nên tốt hơn trong tháng 11 khi có nhiều nhà cung cấp ferrochrome hơn nữa ở miền nam đóng cửa trong suốt mùa khô”, một thương nhân ở Bắc Kinh cho biết.

Giá điện thường tăng ở miền nam khi mùa khô bắt đầu vào khoảng cuối tháng 10 và các nhà máy ferroalloy tiêu thụ nhiều điện ở đó phản hồi lại bằng cách cắt giảm hay ngưng sản xuất.  

Thị trường thép hình EU bình ổn do nhu cầu tiêu thụ thấp

Thị trường thép hình Châu Âu tiếp tục bình ổn trong tuần qua do nỗ lực tăng giá của các nhà máy đã không được đền đáp. Gía thép hình loại  1 được giao dịch tại mức giá cũ 520 Euro/tấn đã tính phí giao hàng.

Các nhà máy đã thành công trong việc áp dụng giá tăng 10 Euro/tấn hồi cuối tháng 8 do thị trường nhận được sự ủng hộ từ gía phế và sức mua cao hơn gần cuối hè. Dù vậy, họ đã thất bại trong việc thuyết phục người mua trả thêm 20 Euro/tấn.

Hiện tại, người mua  thậm chí còn đang hoài nghi rằng mức tăng 10 Euro/tấn khó mà duy trì được trong những tuần tới. Một người mua Benelux cho biết thị trường vẫn đang trong xu hướng chờ đợi do người mua chờ xem diễn biến giá phế tháng 10 trước khi đặt mua bất cứ đơn hàng nào lớn.  

Platts vẫn duy trì giá thép hình Châu Âu bình ổn tại mức 520 Euro/tấn DDP tuần qua.

Tồn kho thép tấm cán nguội không gỉ gia tăng ở Nhật Bản 

Tồn kho thép tấm cán nguội không gỉ tại các trung tâm và nhà phân phối thép cuộn Nhật Bản tăng trong tháng trước  nhưng các nhà quan sát cho biết sự gia tăng này chỉ xuất phát từ sự trì trệ thường thấy của thị trường trong hè.

Tồn kho thép tấm cán nguội austenite trong tháng 08 tại các trung tâm thép cuộn Nhật Bản tăng 1,2% so với tháng 07 lên 64.770 tấn và thép tấm cán nguội ferrite nhích lên 1,5% còn 51.186 tấn, theo Hiệp hội trung tâm thép cuộn không gỉ Nhật Bản.

Nhưng các nhà phân phối cho biết doanh số tháng 08 thường giảm trong suốt kỳ nghỉ hè và tồn kho gia tăng không có nghĩa thị trường đang trì trệ. “Hoạt động thị trường giao ngay của thép tấm cán nguội không gỉ chậm hơn chỉ xuất hiện ở giao dịch hợp đồng dài hạn, còn thị trường giao ngay thì vẫn đủ sôi động để hấp thụ mức giá cao hơn”, một nhà phân phối ở Tokyo nói.

Ông nhận xét rằng các đại lý cần phải nâng giá giao ngay để bù đắp giá cao hơn được tính trước đó bởi các nhà sản xuất nhưng ông sợ bất cứ việc tăng giá bán lẻ nào cũng khó theo kịp bởi vì các nhà sản xuất bây giờ đang thương lượng về việc nâng giá cao hơn để bù lại sự mất giá của đồng Yên.

“Một vài nhà phân phối đang để mắt đến việc nâng giá lên thêm 10.000 Yên/tấn (93 USD/tấn) trong tháng 09 và 10 nhưng chúng tôi sợ điều này sẽ không đủ”.

Hôm thứ Sáu, Yên Nhật được giao dịch quanh mức 108-109 Yên/1 USD, thấp hơn nhiều so với mức trung bình 103,97 Yên của tháng 08.

Kể từ tháng 01, nhà sản xuất thép không gỉ lớn nhất Nhật Bản, Nippon Steel & Sumikin Stainless, đã tăng thêm 80.000 Yên/tấn cho CRC austenite và 30.000 Yên/tấn cho CRC ferrite. Nhưng các đại lý nhấn mạnh rằng họ chỉ xoay sở để tăng CRC austenite thêm khoảng 30.000 Yên/tấn và 10.000 Yên/tấn cho CRC ferrite mà thôi.

Giá thị trường hiện nay cho CRC loại 304 dày 2mm tại Tokyo là khoảng 330.000 Yên/tấn (3.030 USD/tấn), còn CRC loại 430 thì có giá cỡ 250.000 (2.296 Yên/tấn USD/tấn). 

Phôi phiến thiếu hụt và đồng dolla hỗ trợ giá thép tấm Ý

Tỷ giá đồng Euro/dolla và nguồn cung phôi phiến thiếu hụt do sự vắng mặt của các nhà máy Ukraina đã hỗ trợ giá thép tấm dày Ý  tăng lên trong tuần qua.

Trong vòng 2 tuần qua, các nhà máy đã tăng giá chào thêm 30 Euro/tấn và theo các nguồn tin nhận định thì thị trường đã chấp nhận giá mới này.

Một thương nhân cho biết giá giao dịch đạt mức 520-530 Euro/tấn đã tính phí giao hàng đối với thép tấm S275 trong khi một trung tâm dịch vụ cho biết giá mua từ các khách hàng lớn là 500-510 Euro/tấn xuất xưởng.

Một nhà máy khác còn lạc quan hơn và xác nhận đã thu được giá 530 Euro/tấn xuất xưởng trong tuần qua.

Một thực tế là thép  từ Ukraina mà chủ yếu là từ nhà máy Alchevsk vẫn chưa thể cập bến Ý trong tuần tới nên hàng nhập khẩu hiện tại chiếm ưu thế là từ Trugn Quốc. Gía chào thép tấm Trung Quốc đạt mức 430 Euro/tấn CIF Marghera hoặc Ravenna.

Trogn khi đó, một giá chào cạnh tranh khác từ Trung Quốc đối với thép tấm S355 là 450 Euro/tấn CIF Ý giao tháng 11 và 12. Với các vấn đề xoay quanh các đơn hàng của  Alchelvsk, vài người mua đang  tìm kiếm các nguồn nhập khẩu khác, bao gồm cả từ Trung Quốc.

Trong khi thị trường vẫn chậm chạp do nhu cầu tiêu thụ thấp và giá quặng giảm, nguồn cung phôi phiến thiếu hụt đã hỗ trợ giá thép tấm tăng. Nguồn tin cũng cho biết các nhà máy Ukraina hiện tại vẫn chưa cung cấp  và dự báo sẽ chưa thể sản xuất bình thường trở lại  trước Năm mới.

Giá thép tấm Thổ Nhĩ Kỳ suy yếu có thể ảnh hưởng  tới giá HRC

Gía thép tấm Thổ Nhĩ Kỳ đã suy yếu nhẹ trong tuần qua do nhu cầu tiêu thụ không đủ mạnh hỗ trợ giá trong bối cảnh giá nguyên liệu giảm và đồng Lira tăng mạnh so với dolla.

Trong bối cảnh tỷ giá hối đoái dao động đe dọa tới tính năng động của nền kinh tế và làm trì hoãn sự phục hồi của sức mua, một trung tâm dịch vụ nhận định: Trong những trường hợp này, thật khó để duy trì giá bán hiện tại. Đặc biệt, nhu cầu tiêu thụ thép mạ rất thấp ở cả trong nước và xuất khẩu.”

Mặc dù nhu cầu tiêu thụ HRC vẫn ổn định trong nước nhưng các nguồn tin cho rằng sẽ giảm nhẹ vào cuối tháng 10. Habas đã tái sản xuất lại HRC đẩy nguồn cung trong nước tăng lên trong những tháng tới, có thể tác động lên giá chào bán khi mà nhu cầu tiêu thụ còn đang suy yếu.

Các nhà máy trong nước vẫn đang chào bán HRC tại mức 590-605 USD/tấn xuất xưởng sản xuất tháng 11, và cho rằng sức mua vẫn ổn định. Gía chào xuất khẩu cũng không đổi tại mức 580-585 USD/tấn FOB tuần qua trong khi nhu cầu tiêu thụ từ các thị trường xuất khẩu suy yếu. Gía chào nhập khẩu từ CIS vẫn đạt mức 555-575 USD/tấn CFR.

Nhu cầu tiêu thụ tại thị trường CRC chậm chạp. Gía chào từ các nhà máy trong nước đã giảm 5 USD/tấn còn 685-700 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá chào xuất khẩu là 675-685 USD/tấn xuất xưởng.

Giá chào xuất khẩu thép mạ đã giảm thêm 5 USD/tấn trong tuần qua. Gía chào xuất khẩu HDG 0.5mm hiện tại là 765-780 USD/tấn FOB trong khi giá chào xuất khẩu PPGI 9002 0.5mm đứng tại mức 865-890 USD/tấn FOB, giảm cùng mức tương tự.

Giá chào HDG 0.5mm trong nước suy yếu nhẹ còn 780-800 USD/tấn xuất xưởng trong khi PPGI 9002 0.5mm niêm yết tại mức 880-910 USD/tấn xuất xưởng.

Giá thép cuộn không gỉ Châu Á giảm theo niken, sức mua yếu ớt

Hôm thứ Sáu, giá có thể giao dịch của CRC không gỉ loại 304 2B dày 2mm Đài Loan và Hàn Quốc giảm còn 2.600-2.700 USD/tấn CFR tại các cảng Đông Á và Đông Nam Á, từ mức giá 2.650-2.750 USD/tấn của một tuần trước đó do sức mua suy yếu và giá niken thấp hơn.

Các chào giá CRC Hàn Quốc tuần trước được nghe nói là 2.700 USD/tấn CFR, so với mức 2.700-2.800 USD/tấn CFR của tuần trước đó. Còn chào giá CRC Đài Loan trong tuần trước là 2.600-2.850 USD/tấn CFR, so với 2.700 USD/tấn CFR cách đó một tuần.

Một thương nhân ở Đài Bắc đã chốt được nhiều hợp đồng CRC Đài Loan trong tuần trước với giá khoảng 2.650 USD/tấn CFR. Nhưng không có hợp đồng nào được xác nhận. Những người khác chốt giá có thể giao dịch tầm 2.600-2.700 USD/tấn CFR, trong khi nhấn mạnh rằng mức giá 2.750 USD/tấn CFR không còn được giao dịch nữa sau khi giá niken giảm vào tuần trước đó.

Một thương nhân ở Đài Nam đã chào giá 2.600 USD/tấn CFR Đông Nam Á hồi tuần trước nhưng khách hàng của ông không quan tâm.

Một thương nhân ở Hong Kong nói rằng các khách hàng người Trung Quốc của ông chỉ quan tâm thu mua với giá 2.600 USD/tấn CFR mà thôi, đây là mức giá bằng với giá ở Trung Quốc hiện nay. Nhưng các nhà cung cấp Hàn Quốc và Đài Loan không thể giảm giá tới mức này được, những người này đã chào giá 2.700 USD/tấn CFR trong tuần trước.

Các thương nhân cho biết họ cũng đang đợi các nhà máy Hàn Quốc và Đài Loan thông báo giá tháng 10 của họ trong tuần này và hầu hết đều dự đoán giá sẽ giảm thêm nữa. “Giá có thể giảm ít nhất 80 USD/tấn”, một người dự đoán, dựa trên những thay đổi về giá niken.

Giá giao dịch chính thức bằng tiền mặt của niken trên sàn London Metal Exchange đã sụt giảm tới mốc thấp 5 tháng và để mất gần 700 USD/tấn so với tuần trước đó và chốt tại 17.205-17.215 USD/tấn trong ngày 25/9. 

Thị trường ống đúc miền đông Trung Quốc suy yếu do chi phí nguyên liệu thấp hơn 

Giá giao ngay của thép ống đúc cacbon ở thị trường Thượng Hải có xu hướng đi xuống trong tuần trước do các nhà sản xuất thép ống ở miền đông cắt giảm giá xuất xưởng của họ xuống thấp hơn do giá nguyên liệu đầu vào là thép tròn đặc giảm.

Giao dịch trên thị trường giao ngay ở Thượng Hải được cho là sẽ thưa thớt vào trước và trong tuần nghỉ lễ Quốc khánh vào đầu tháng 10 tới.

Tại Platts, giá giao ngay của ống đúc loại 20# 219x6mm (GB/T 8163) được sản xuất từ các nhà máy ở miền đông vẫn không đổi so với tuần trước đó và chốt tại 3.650 NDT/tấn (596 USD/tấn) gồm VAT 17% tại Thượng Hải.

Giá của một số loại ống đúc có kích thước khác chẳng hạn như loại đường kính 108mm tiếp tục giảm khoảng 50 NDT/tấn (8 USD/tấn) so với tuần trước đó.

Các thương nhân cho biết thị trường ống đúc giao ngay vẫn đang tiếp tục đà lao dốc do giá nguyên liệu vẫn đang giảm và sức mua không có dấu hiệu cải thiện. Tín hiệu thị trường phần lớn vẫn cho thấy sự suy yếu hơn nữa trong giá ống đúc giao ngay.

Các nhà máy thép ống ở tỉnh Sơn Đông có khả năng sẽ giảm giá xuất xưởng của họ hơn nữa để kích cầu, ít nhất là cho đến khi họ thấy sự phục hồi trong giá thép tròn đặc và tâm lý thị trường ổn định.

Một vài nhà sản xuất ống đúc ở thành phố Lâm Nghi, tỉnh Sơn Đông tiếp tục cắt giảm chào giá trong hai ngày thứ Tư và thứ năm xuống tổng cộng 50 NDT/tấn do giá thép tròn đặc giao ngay đang suy yếu.

Theo đó, giá xuất xưởng của ống đúc 20# 108x4.5mm giảm còn 3.080-3.090 NDT/tấn. Theo nguồn tin từ một nhà máy dự đoán giá sẽ giảm còn khoảng 3.000 NDT/tấn trước khi thị trường có bất kỳ dấu hiệu phục hồi nào. Điều này phần lớn được dựa trên suy đoán giá thép tròn đặc sẽ giảm hơn nữa. 

Quặng mất giá kéo theo giá phế suy yếu

Giá xuất khẩu Phế Mỹ tới Đông Nam Á đã giảm hơn nữa trong ngày thứ năm vừa qua do tâm lý thị trường suy yếu và nhu cầu tiêu thụ giảm. Tuần trước, giá quặng đã giảm xuống dưới mức 80 USD/tấn và nguồn cung phôi thanh giá rẻ Trung Quốc cũng có sẵn trong khi sức mua ì ạch từ Châu Á đã kéo giá phế Mỹ khối lượng nhỏ xuất khẩu  xuống dưới mức thấp 315 USD/tấn CFR cuối ngày thứ năm, giảm từ mức Platts cũng hạ giá xuất khẩu phế khối lượng nhỏ Bờ Biển Tây Mỹ xuống 10 USD/tấn, còn 290-300 USD/tấn FAS cảng LA, giảm 30 USD/tấn kể từ ngày 17/9.

Nhu cầu tiêu thụ phế khối lượng lớn cũng yếu. Hyundai Steel đã đặt mua phế khối lượng lớn Mỹ tại mức 367 USD/tấn CFR Hàn Quốc giao đầu tháng 11. Các nhà máy khác của Hàn Quốc có thể dự chào tại mức 355-360 USD/tấn CFR Đông Nam Á.

Tại Nhật Bản, thị trường phế đã bắt đầu suy yếu trong tuần quan với sức mua trong nước trầm lắng và xuất khẩu giảm. Nhà máy Tokyo Steel Manufacturing đã giảm giá mua xuống 500 Yên/tấn (4.6 USD/tấn) kể từ ngày 27/9 tại các xưởng Okayama, Tahara và Utsunomiya. Gía mua phế H2 tại các xưởng Utsunomiya hiện tại là 34.000 Yên/tấn (312.2 USD/tấn).

Các thương nhân Nhật Bản hiện tại thu mua phế H2 để xuất khẩu tại mức 32.500 Yên/tấn FAS vịnh Tokyo, không đổi so với tuần trước đó. Các khách hàng ngoài nước gồm Hàn Quốc và Đài Loan vẫn im tiếng, một vài kho phế tại vịnh đã ngưng nhận phế do hàng tồn cao. Tình hình thị trường suy yếu này sẽ nhanh chóng làm giảm giá phế tại vịnh Tokyo.  

Tại Hàn Quốc, việc thu mua phế Nhật vẫn yếu do giá phế Nhật và hàng tồn trong nước cũng cao. Tổng lượng phế dự trữ tại Hyundai Steel đạt mức 850.000 tấn hồi giữa tuần, tăng gần 100.000 tấn so với đầu tháng.

Giá thép dầm bản rộng giảm ở miền đông Trung Quốc 

Giá thép dầm bản rộng ở miền đông Trung Quốc đã sụt giảm 100-200 NDT/tấn (16-33 USD/tấn) trong suốt tháng qua, điều này cho thấy xu hướng đi xuống chung trên thị trường thép cả nước.

Tại thị trường bán lẻ Thượng Hải hôm 26/9, giá giao ngay của thép dầm hình H 400x400mm được chốt ở mức từ 3.200-3.230 NDT/tấn (522-527 USD/tấn) bao gồm VAT 17%, giảm 115 NDT/tấn (19 USD/tấn) so với cuối tháng 08. Đồng thời, giá của thép dầm hình H 200x200mm cũng đánh dấu mức giảm lớn hơn lên tới 230 NDT/tấn so với tháng trước đó xuống còn 2.800-2.820 NDT/tấn, cũng đã có VAT.

Xu hướng thép dầm hình H tương tự như những loại thép khác của Trung Quốc trong khi nhu cầu vẫn teo tóp. Đơn cử như thép cây, theo định giá của Platts trên thị trường Thượng Hải, tính cho đến tháng này, giá thép cây HRB400 đường kính 18-25mm đã giảm tổng cộng 105 NDT/tấn.

Đa số các thương nhân mà Platts khảo sát đều thừa nhận rằng doanh số tháng này đã cải thiện một chút so với tháng 08. Hầu hết đều dự đoán các đơn đặt hàng trong tháng 10 tới cũng khó mà tăng đáng kể, điều này có thể dẫn đến giá sẽ rớt thảm hơn nữa.

Thật vậy, giá giao ngay của thép dầm hình H rất có thể sẽ giảm thêm một ít trong tháng 10 sau khi thị trường mở cửa trở lại sau Lễ Quốc khánh.

Ông dự báo tồn kho sẽ gia tăng khi hết lễ bởi vì không có bất kỳ tin tức nào về việc các nhà máy sẽ ngưng hoạt động để bảo trì, nên ông dự đoán sản lượng tháng tới sẽ vẫn còn cao. Ông cũng sợ rằng miền bắc hiện đang sắp bước vào mùa đông từ tháng 11 nên các nhà máy ở đây thậm chí có thể tăng cường việc giao hàng tới thị trường miền đông hay miền nam trong những tháng tới. 

Giá thép cây Bồ Đào Nha vẫn ổn định

Giá thép cây Bồ Đào Nha đã tăng nhẹ trong tháng 9 và dường như sẽ ổn định với dự báo các nhà máy trong nước bao gồm Celsa Huta Ostrowiec, CMC Zawiercie and ArcelorMittal Warszawa sẽ cố gắng tăng giá chào hơn nữa.

Các nguồn tin cho biết giá phế tăng đã thúc đẩy giá thép cây tăng với các đơn hàng gần đây chốt tại mức 1.900-1.920 LNP/tấn đã tính phí giao hàng. Một trong các nhà máy trong nước cho biết đã bán hầu hết các lô hàng có sẵn tháng 10 tại mức giá trên 1.900 PLN/tấn và đã tăng thêm 50 PLN/tấn.

Theo các nhà môi giới thì mức 1.950 PLN/tấn là mức các nhà máy muốn có, tuy nhiên, giá này gần với giá bán lẻ cho người tiêu thụ cuối. Thêm vào đó, hàng nội địa tại mức giá dưới 1.900 PLN/tấn đã tính phí giao hàng vẫn còn có sẵn.

Nhận định về nhu cầu tiêu thụ trong nước, các nguồn tin có vẻ không cùng quan điểm. Một số thì cho rằng sức mua rấtyếu trong khi số khác thì cho rằng nhu cầu tiêu thụ gần đây đã hồi phục.  

Năm nay, sức mua nhìn chung đã cải thiện vừa phải với giá bình ổn bất thường. Các thành viên thị trường hy vọng các đầu tư  kỹ thuật cộng đồng trong nước mà phần lớn là năng lượng, đường sắt và hệ thống đường xá sẽ bắt đầu và mạnh hơn hướng về năm 2015.

Giá thép cây ở miền bắc Trung Quốc vẫn còn ổn định 

Giá thép cây ở miền bắc Trung Quốc hôm thứ Sáu tuần trước giữ ổn định sau khi phục hồi khiêm tốn được 10 NDT/tấn (2 USD/tấn) trong ngày trước đó, do các đại lý đã kiềm chế việc cắt giảm giá sâu hơn. Họ đang cố gắng bảo vệ lợi nhuận của mình sau khi Hebei Iron & Steel (Hegang) ấn định giá hợp đồng tháng 09 vào ngày 25/9.

Tại thị trường bán lẻ Bắc Kinh hôm thứ Sáu, giá giao ngay của thép cây HRB400 đường kính 18-25mm không đổi so với thứ Năm và chốt ở mức 2.680-2.690 NDT/tấn (437-439 USD/tấn) trọng lượng thực tế và gồm VAT 17%. Hồi đầu tuần trước thị trường đã chứng kiến một đợt giảm giá mạnh đến 110 NDT/tấn, tiếp nối đà giảm 100 NDT/tấn của tuần trước đó.

Giá hợp đồng tháng 09 của Hegang được chốt tại 2.700 NDT/tấn, trọng lượng lý thuyết (tương đương 2.780 NDT/tấn trọng lượng thực tế) cho thép cây HRB400 đường kính 18-25mm. Tuy nhiên, do giá giao ngay giảm sâu hơn trong tháng này nên nhà máy này đã cam kết sẽ trợ cấp cho các đại lý của mình 80 NDT/tấn cho những đơn đặt hàng vào tháng 09 nếu họ đạt được chỉ tiêu đặt hàng đề ra của tháng 10.

Một đại lý ở Bắc Kinh than phiền rằng những lô thép xây dựng mới đến công ty ông trong tháng 10 sẽ tăng khoảng 50% do cả hai nhà cung cấp là Hegang và Xinxing Ductile Iron Pipe đều tăng cường việc vận chuyển. Sức ép hàng tồn kho gia tăng sau lễ Quốc khánh (01-07/10) rất có thể sẽ kéo giá giao ngay tiếp tục trượt dốc.

Theo nguồn tin từ nhà máy Chengde Iron & Steel, một trong những công ty con của Hegang cho biết sản lượng thép xây dựng của nhà máy sẽ trở lại bình thường vào tháng tới sau khi việc bảo trì một trong những dây chuyền cuộn trơn được hoàn tất. Tuy nhiên, ở mức giá hiện tại công ty ông không kiếm được bất kỳ khoản lợi nhuận nào trên các sản phẩm thép dài.

Một số nhà quan sát thị trường khăng khăng rằng với mức giá thấp hiện nay cùng với lợi nhuận bị vắt kiệt tại các nhà máy cho thấy giá thép sẽ không thể giảm thêm nữa trong tháng 10.

Hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 10 trên sàn Shanghai Futures Exchange cũng phục hồi 1,65% trong ngày thứ Sáu chốt tại 2.590 NDT/tấn, nhưng mức giá này vẫn còn thấp hơn 4,6% so với tuần trước đó. 

Phế Mỹ sẽ không còn bình ổn nữa trong tháng 10

Giá phế Ferrite Mỹ trong nước  đã duy trì bình ổn trong suốt mùa hè qua. Tuy nhiên, với sự sụt giảm nhanh chóng của giá phế xuất khẩu  cộng với kế hoạch cắt điện tại một số nhà máy lớn trong khu vực đã thôi thúc các nhà máy trong nước chuẩn bị giảm giá chào trong tháng tới.

Phần lớn các thương nhân đang chào bán phế tại mức thấp hơn 5 USD/tấn so với giá tháng 9, tuy nhiên, chưa có nhà máy nào sẵn sàng đặt mua đơn hàng khối lượng lớn. Trong khi đó, có vài thương nhân còn hạ giá chào tới 10 USD/tấn.

Định giá phế vụn hàng ngày theo platts cũng giảm 5 USD/tấn so với ngày cuối tuần qua, còn 370-380 USD/tấn giao tại Midwest.

Từ tháng 5 tới tháng 9, giá phế đã duy trì bình ổn tại Mỹ dựa vào cung cầu cân bằng. Tuy nhiên, cả bên mua và bán đều đồng tình rằng giá sẽ không còn ổn định nữa trong tháng 10. Thêm vào đó, việc cúp điện tại Midwest và thung lũng Ohio dự báo sẽ làm hạ nhiệt nhu cầu tiêu thụ trong tháng.

Giá phế xuất khẩu giảm cũng là mối lo cho các nhà máy. Gía phế xuất khẩu đã mất 10-15 USD/tấn cho tới cuối tháng này và có thể sẽ còn lún sâu hơn nữa.

Trong khi đó, giá phế chất lượng cao có thể tiến triển tốt hơn dựa vào nguồn cung gang thỏi thắt chặt với nguồn nguyên liệu giới hạn từ CIS . Hầu như các thương nhân đồng tình rằng tuần này  doanh số bán phế có thể sẽ cao hơn tại mức giá trên. 

Giá xuất khẩu HDG Ấn Độ tới Mỹ ổn định 

Giá xuất khẩu của HDG Ấn Độ vẫn ổn định trong tuần trước. Thép cuộn mềm loại thường dày 0.3mm phủ 90 gram kẽm trên một mét vuông tuần trước có giá giao dịch trung bình từ 855-865 USD/tấn CFR bờ biển phía đông Hoa Kỳ, trong đó phí vận chuyển 50-60 USD/tấn cho các lô hàng giao cuối tháng 11.

Đại diện một nhà máy ở Mumbai đã nhận được một đơn đặt hàng 3.000-4.000 tấn từ các khách hàng thường xuyên ở Mỹ với giá 850-870 USD/tấn CFR. Các đơn hàng này đã không bị ảnh hưởng bởi những tin đồn trên thị trường về khả năng xảy ra vụ kiện thương mại đang được Washington xem xét đối với việc nhập khẩu thép cuộn HDG.

Tuy nhiên, một thương nhân ở Mumbai không đồng tình với quan điểm trên và bày tỏ nhiều mối quan ngại về một vụ điều tra chống bán phá giá đang khiến khách hàng của ông lảng tránh. Nỗi sợ của các nhà nhập khẩu đó là với bất kỳ hành động nào như vậy, thuế có lẽ sẽ được áp dụng từ một thời điểm trong quá khứ.

Nhưng việc đảm bảo kinh doanh từ các khu vực khác đang cho thấy đầy thách thức, gặp nhiều khó khăn trong việc bán HDG dày hơn 0.5mm tới người mua Trung Đông bởi vì thị trường ở đó đang bị hấp dẫn bởi HDG có giá thấp hơn từ Trung Quốc. Đại diện nhà máy Mumbai cho biết gần đây ông đã bán 5.000-6.000 tấn HDG dày 0.18mm phủ 90 gram kẽm trên một mét vuông với giá 900 USD/tấn CFR Dubai.

Trong tháng 08, ông này đã chốt được một hợp đồng ở khu vực Trung Đông với giá 950 USD/tấn CFR Dubai cho HDG dày 0.18-0.2mm phủ 90 gram kẽm trên một mét vuông và đang nỗ lực đạt được mức giá này trong tháng 09. Ngược lại, ông cho biết các giao dịch HDG Trung Quốc dày 0.5mm phủ 180-220 gram kẽm trên một mét vuông gần đây nghe nói được ký kết với giá 730-740 USD/tấn CFR Dubai.

Trong khi đó, nguồn cung HDG ở thị trường Ấn Độ đang hạn chế, rõ ràng là do việc giảm bớt nguồn hàng từ các nhà sản xuất chính như Essar Steel và Bhushan Steel.

Gần đây, ông này đã mua 200 tấn HDG dày 0.8-3mm phủ 120 gram kẽm trên một mét vuông từ một nhà máy lớn ở Mumbai với giá khoảng 59.300 rupees/tấn (970 USD/tấn) gồm phí vận chuyển hay tương đương 45.000 rupees/tấn xuất xưởng.