Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 24/11/2014


Thị trường ferrochrome Trung Quốc lạc quan một cách thận trọng

Tâm lý đã cải thiện ở thị trường ferrochrome Trung Quốc trong những tuần gần đây. Điều này là do nguồn cung hạn chế sau khi cắt giảm sản lượng ở Nội Mông Cổ và nhà sản xuất thép không gỉ lớn nhất nước Shanxi Taigang Stainless Steel đã tăng giá mua ferrochrome tháng 12 thêm 50 NDT/tấn lên 6.200 NDT/tấn (tương đương 76 cents/lb) vào cuối tuần trước.

Một vài nhà quan sát dự đoán giá thị trường giao ngay sẽ tăng 50-100 NDT/tấn trong thời gian tới sau khi giá mua của các nhà máy cao hơn. Sự lạc quan là “nhiên liệu” giúp bình ổn giá cũng như nhu cầu nhập khẩu quặng chrome ở trong nước trong một hay hai tuần qua sau nhiều tuần giảm.

Tuy nhiên, số khác thì khuyến cáo về giá ferrochrome có thể vẫn bị hạn chế bởi sự bất ổn về viễn cảnh thị trường thép không gỉ trong thời gian gần đây.

Giá thép không gỉ trong nước đã bắt đầu tăng gần đây nhưng đà tăng chủ yếu là do chi phí đẩy như giá NPI tăng chứ không phải nhờ nhu cầu mạnh hơn.

“Chúng tôi thực sự không thể nói sự gia tăng của giá nguyên liệu gần đây nghĩa là thị trường thép không gỉ đang trở nên tốt hơn hay chưa. Nhu cầu thép không gỉ thường suy yếu vào cuối năm. Chúng tôi hy vọng giá thép không gỉ có thể tăng nhưng liệu đà tăng này có thể bền vững hay không thì không chắc”.

Một thương nhân ở Bắc Kinh cho biết thêm “giá ferrochrome sẽ tăng trong một đến hai tháng tới. Nhưng sau đó chúng tôi không chắc. Nhu cầu thép không gỉ vẫn không cao”.

Hôm thứ tư tuần trước, giá giao ngay trong nước của ferrochrome hàm lượng cacbon cao (50% Cr) xuất xứ Trung Quốc không đổi so với tuần trước và giữ ở mức 6.200-6.400 NDT/tấn.

Phế Thổ Nhĩ Kỳ giảm, Châu Á bình ổn hơn

Giá phế HMS I/II 80:20 nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm 2 USD/tấn trong tuần qua, còn 298 USD/tấn CFR do tâm lý thị trường suy yếu khi phế Ferrite đang giành được quyền ưu tiên do nguồn cung thắt chặt.

Nguồn cung tại Bắc Âu và Scandinavia đã cạn kiệt do các người thu gom phế kìm hàng. Tuy nhiên, Ông dự báo vấn đề này sẽ nới lỏng ra do họ phải bán hàng.

Hồi đầu tuần, vài thương nhân cho biết thị trường đã khởi sắc với nhiều giao dịch diễn ra ở mức 307.5 USD/tấn CFR. Các giá này dường như sẽ không xảy ra nữa, tuy nhiên, vẫn có giá dưới mức 300 USD/tấn.

Xu hướng phế Bắc Á xáo trộn trong tuần qua. Tại Nhật Bản, giá bình ổn sau khi Tokyo Steel Manufacturing tăng giá mua từ ngày 5/11. Trong ngày cuối tuần, nhà máy mini Nhật Bản vẫn trả giá 30.000 Yên/tấn (255.3 USD/tấn) đối với phế HS giao tới các xưởng Utsunomiya ở Bắc Kanto.

Các thương nhân đang trả giá 28.500-29.000 Yên/tấn FAS tại vịnh Tokyo để thu gom phế H2 xuất khẩu, tăng nhẹ so với giá tuần trước. Tuy nhiên, trong ngày  cuối tuần, các thương nhân cho hay giá tăng chỉ là tạm thời do các chuyến hàng đã đến là cho các đơn hàng đặt mua tại mức giá cao hơn trước đó. Một khi các thương nhân bắt đầu tải các lô hàng mới, giá sẽ giảm.

Tuần qua, công ty Hyundai Steel chào mua với giá 29.000-29.500 yên/tấn FOB đối với phế HS Nhật Bản nhưng không có giao dịch nào diễn ra do các thương nhân Nhật Bản đặt mục tiêu giá tối thiểu là 30.000 Yên/tấn FOB. Các nhà máy mini khác của Hàn Quốc vẫn im ắng.

Trước đó, vào ngày 14/11, Hyundai đã mua phế H2 Nhật với giá 29.000 Yên/tấn FOB, cao hơn 3.000 Yên/tấn so với cách đó 2 tuần. Tuy nhiên,c ác đơn hàng này chỉ có khối lượng nhỏ cỡ 10.000 tấn.

Tại thị trường nội địa Nam Hàn Quốc, Hyundai đã giảm giá mua vào thêm 10.000-15.000 Won/tấn (9.5-14 USD/tấn) tại tất cả các xưởng từ ngày 20/11. Dongbu Steel sẽ giảm giá xuống 1.000 Won/tấn tại Dangjin từ ngày 24/11.

Nhập khẩu phế Mỹ vẫn trầm lắng ở Đông Nam Á trong tuần qua. Mặc dù các nguồn tin cho biết phế khối lượng lớn Mỹ được đặt mua gần đây với giá 305-310 USD/tấn CFR nhưng thông tin này chưa được xác nhận. 

Các nguồn itn cho biết giá nhập khẩu vẫn bình ổn trong tuần nhưng gặp áp lực do sự suy yếu của giá quặng giao ngay. Gía phế HMS 80:20 khối lượng lớn nhập khẩu vẫn không đổi ở mức 305-310 USD/tấn CFR.

Thị trường thép cuộn Mỹ Qúy 1 còn nhiều xáo trộn

Mối lo trên thị trường thép cuộn Mỹ về giá cả Qúy đầu năm 2015 đang ngày càng gia tăng do hiện tại các nhà máy đang nỗ lực lắp đầy đơn hàng tháng 12 mà điều này có thể giải phóng bớt hàng tồn kho trong nước trong bối cảnh hàng nhập khẩu tăng.

Nhiều nguồn tin cho rằng giá sẽ bình ổn một khi thời gian giao hàng mở rộng tới tháng 1, tuy nhiên, đầu tiên, thị trường phải giải quyết vấn đề với các giao dịch cuối năm. Hiện tại, giá HRC được chốt ở mức 620 USD/tấn và thấp hơn đối với các đơn hàng lớn hơn, giảm từ đỉnh 700 USD/tấn hồi đầu tháng 5.

Đơn hàng HRC 500 tấn hiện bình ổn ở mức 630-650 USD/tấn và 760-770 USD/tấn với CRC xuất xưởng Midwest Indiana.

Ngươì mua không tự tin về áp lực giá hiện tại có thuyên giảm đi không một khi thời gian giao hàng kéo dài tới tháng 1. Một người cho biết đến giữa tháng 12, các nhà máy mới có thể nhận đủ đơn hàng giao tháng 1 do vẫn còn quá nhiều lỗ hổng.

Bên cạnh đó, nếu các nhà máy nỗ lực sản xuất thêm đẻ bù vào nguồn hàng tồn kho đang giảm thì lỗ hổng Qúy 1 sẽ càng rộng hơn. Vấn đề trong Qúy đầu tiên là áp lực hàng nhập khẩu và đơn hàng trong nước chậm.

Một người mua không chắc về xu hướng  giá đầu năm sau sẽ ra sao do các đơn hàng cuối năm nay đến chậm hơn các năm trước đó. Tuy nhiên, thị trường có thể đón nhận sự suy yếu dựa vào giá thấp.

 

Người mua cho biết có nhiều giá thấp diễn ra tại Nam Mỹ, nơi mà các nhà máy gặp áp lực cạnh tranh cao với hàng nhập khẩu. Thêm vào đó, tại Midwest, các giao dịch khối lượng nhỏ sẽ ở mức 630-650 USD/tấn và gần đây được chào bán ở mức 645 USD/tấn bởi một nhà máy mini trong khu vực.

Taigang Stainless tăng giá mua FeCr tháng 12 

Shanxi Taigang Stainless Steel đã tăng giá mua ferrochrome tháng 12 thêm 50 NDT/tấn lên 6.200 NDT/tấn (tương đương 76 cents/lb). Nguồn cung hạn chế trên thị trường, vì vậy giá ferrochrome tăng.

Giá được thương lượng giữa Taigang và các nhà cung cấp ferrochrome là thanh toán hoàn toàn bằng tiền mặt, gồm phí vận chuyển và VAT 17%.

Đây là lần tăng giá thứ hai của Taigang trong năm nay, lần đầu tiên là cho những lô hàng giao tháng 01 trước đó. Tháng trước, nhà máy này giữ nguyên giá mua tháng 11 nhưng trước đó đã giảm giá mua hàng tháng trong 8 tháng liên tục.

Taigang cũng gây ngạc nhiên cho thị trường bởi vì đây là nhà máy đầu tiên trong số các nhà sản xuất thép không gỉ hàng đầu như Baosteel và Jiuquan Iron & Steel thông báo giá. Vì thông thường nhà máy này là người cuối cùng trong số các nhà sản xuất thông báo giá.

Taigang không mua đủ số lượng nguyên liệu hồi tháng 11 do sản lượng giảm ở Nội Mông Cổ, dẫn đến việc thương lượng sớm trong tháng này.

Các nhà quan sát hiện giờ dự báo Baosteel và Jiuquan Steel sẽ theo bước Taigang và cũng sẽ tăng giá tháng 12. Giá giao ngay trong nước cũng sẽ đi theo giá mua và có thể tăng 50-100 NDT/tấn trong thời gian gần.

Trong khi đó, có tin đồn một nhà sản xuất khác, Tsingshan Group, đã tăng giá mua từ tháng 12/2014 đến tháng 03/2015 lên 6.500 NDT/tấn gồm phí vận chuyển, thanh toán bằng tiền mặt. Mức giá này tăng khoảng 100 NDT/tấn so với giá tháng 11.  

Giá thép cây Nga giảm do nhu cầu tiêu thụ suy yếu và sự cạnh tranh mạnh mẽ

Giá thép cây Nga đã giảm 170 Rub/tấn (4 USD/tấn) trong tuần qua và 675 Rub/tấn (15 USD/tấn) so với đầu tháng này.

Do sản lượng thép cây và phôi thanh Nga xuất khẩu không nhiều, ít hơn 10% sản lượng trong nước nên giá nội địa không bám theo giá chào bán FOB Biển Đen. Tuy nhiên, giá thép cây đã giảm kể từ tháng 9, và giá trị tính theo đồng dolla giảm dẫn tới chênh lệch giá thép cây CPT Maxcova và phôi thanh FOB Biển Đen thu hẹp lại còn 33 USD/tấn từ mức 88 USD/tấn. Trong suốt giai đoạn này, phôi thanh CIS giảm gần 100 USD/tấn trong khi giá thép cây Nga giảm 160 USD/tấn.

Các nhà máy Nga phần lớn đã chấp nhận giá thanh toán là 24.200-24.400 Rub/tấn (531-535 USD/tấn) đối với thép cây 12mm sản xuất tháng 11 và 23.800-24.000 Rub/tấn (522-526 USD/tấn) đối với loại 14mm đã tính phí giao hàng tới Maxcova. Nếu không tính VAT 18%, gia trên lần lượt đạt mức 20.510-20.680 Rub/tấn (450-453 USD/tấn) và 20.170-20.340 Rub/tấn (442-446 USD/tấn) CPT Maxcova.

Nhiều nguồn tin cho biết giá mua thép cây 12mm đã xuống mức thấp 24.000 Rub/tấn (526 USD/tấn), tức 20.340 Rub/tấn (446 USD/tấn) chưa tính VAT, tuy nhiên, đây là các đơn hàng được giao dịch với 2 nhà máy gồm một nhà máy EAF không phải loại tích hợp, và cả hai đều giao dịch thanh toán trước toàn bộ tiền mặt. 

Platts giảm giá thép cây Nga xuống mức 20.250-20.600 Rub/tấn (444-452 USD/tấn) CPT Maxcova, giảm 160 Rub/tấn (3.5 USD/tấn) so với giá 20.430-20.750 Rub/tấn (434-440 USD/tấn) tại tỷ giá ngày 14/11. Như vậy, mặc dù đã giảm nhưng giá trị theo đồng dolla thực sự tăng 10 USD/tấn so với giá trị tính theo Rub.

Trung Quốc: Giá nhập khẩu FeCr đi ngang do quan niệm giá mua không đổi 

Platts định giá giao ngay cho quặng chrome (48-52% Cr) xuất xứ Nam Phi là 78-80 cents/lb CIF Trung Quốc hôm thứ Sáu. Giá đi ngang so với tuần trước do giá mua của nhà máy ít thay đổi mặc dù tâm lý trên thị trường cải thiện.

Có tin đồn các giao dịch quặng chrome gần 80 cents/lb CIF, mặc dù điều này không thể được xác nhận trực tiếp bởi Platts. Nhiều người tiếp tục chốt giá có thể giao dịch cho quặng chrome là 78-80 cents/lb CIF.

Giá giao ngay cho ferrochrome (58-60% Cr) hàm lượng cacbon cao xuất xứ Ấn Độ không đổi so với tuần trước ở mức 82-84 cents/lb CIF Trung Quốc hôm thứ Sáu trong bối cảnh thiếu giao dịch. Chào giá và giao dịch cho ferrochrome Ấn Độ vẫn thưa thớt do nguồn cung hạn chế và chênh lệch lớn giữa giá mua và bán. Một nhà sản xuất Ấn Độ đang hy vọng sẽ bán với giá ít nhất là 82 cents/lb CIF nhưng mức giá này không thể chấp nhận đối với các khách hàng Trung Quốc, trong khi một nhà sản xuất khác cho biết ông không thể giảm giá xuống dưới 86 cents/lb CIF do chi phí sản xuất cao.

Nhiều yêu cầu cho nguyên liệu nhập khẩu trong tuần trước. Tâm lý ở Trung Quốc đã cải thiện nhờ nguồn cung hạn chế sau khi giảm sản lượng ở Nội Mông Cổ vào cuối tháng 10 tới đầu tháng 11, ngoài ra còn do sau khi Shanxi Taigang Stainless Steel tăng giá mua tháng 12. Một vài nhà máy Trung Quốc cũng đang yêu cầu nguyên liệu Ấn Độ vận chuyển tháng 12 và 01 để dự trữ trước Tết Nguyên đán vào giữa tháng 02.

Tuy nhiên, giá mua của các nhà máy cho quặng chrome vẫn còn 78-80 cents/lb, trong khi ferrochrome Ấn Độ được nghe nói là 77-81 cents/lb CIF trong tuần này. 

Các nhà máy Nga chuẩn bị nâng giá HRC tháng thứ 3 liên tiếp

Mặc dù tình hình giao dịch đã trầm lắng tại Nga,các nhà máy đang tìm cách tăng giá trong nước thêm 1.200-1.350 Rub/tấn (26-30 USD/tấn) không tính VAT đối với tấm cán nóng sản xuất tháng 12.

Nếu giá tăng thực tế, tháng 12 sẽ là tháng thứ 3 liên tiếp các nhà máy tăng giá thành công. Gía tăng là để bù đắp lại sự sụt giảm của đồng Rub. Do các nhà máy băng Nga có thể giảm nguồn cung thép cuộn trong nước bằng cách thúc đẩy xuất khẩu, nên họ gặp thuận lợi hơn trong việc điều chỉnh giá trong nước do đồng Rub biến động nhờ doanh thu xuất khẩu.

Đối với thị trường Maxcova, các nhà máy tìm cách tăng giá tấm cuộn tháng 12 lên mức 26.780-27.020 Rub/tấn (586-591 USD/tấn) đối với tấm 2mm và 26.130-16.370 Rub/tấn (572-577 USD/tấn) với tấm 4mm đã tính phí giao hàng. Nếu không tính VAT 18%, các mức giá này tương đương mức 22.700-22.900 Rub/tấn (|496-501 USD/tấn) và 22.150-22.350 Rub/tấn (484-489 USD/tấn) CPT Maxcova.

Tuy nhiên, vẫn chưa có giao dịch nào diễn ra và tấm mỏng vẫn ở mức 25.190-25.430 Rub/tấn (551-556 USD/tấn) đối với tấm 2mm và 24.600-24.800 Rub/tấn (538-542 USD/tấn) đối với tấm 4mm đã tính phí giao hàng. Nếu chưa tính VAT 18%, giá này tương đương mức 21.350-21.550 Rub/tấn (467-471 USD/tấn) và 20.850-21.020 Rub/tấn (456-460 USD/tấn) CPT Maxcova.  Trong khi đồng nội tệ vẫn bình ổn thì giá trị tính theo đồng dolla đã tăng 10 USD/tấn so với cách đây nửa tháng dựa vào nguồn thanh khoản thắt chặt và giá dầu tăng.

Đồng Rub đã suy yếu gần 30% so với dolla từ giữa tháng 7 tới giữa tháng 11 nhưng trong tuần qua (14-21/11), đồng nội tệ Nga tăng mạnh trở lại từ mức 47.2 Rub/dolla tới xuống 45.7 Rub/dolla. 

Platts vẫn giữ nguyên định giá tấm và cuộn cán nóng 2-4mm, tại mức 20.950-21.550 Rub/tấn (458-471 USD/tấn) và 20.350-20.950 Rub/tấn (445-458 USD/tấn) CPT Maxcova. Gía trị đồng dolla tăng mạnh thêm 6 USD/tấn so với cách đây nửa tháng. 

Thị trường thép cuộn không gỉ Châu Á theo dõi sự lên giá 

Platts định giá CRC không gỉ loại 304 2B dày 2mm của Đài Loan và Hàn Quốc là 2.350-2.450 USD/tấn CFR tại các cảng ở Đông Á và Đông Nam Á vào thứ sáu tuần trước, không đổi so với tuần trước đó. Nhưng giá có thể tăng do chào giá đã bắt đầu xu hướng đi lên sau khi niken phục hồi vào tuần trước.

Chào giá CRC Hàn Quốc nhích cao hơn lên 2.400-2.500 USD/tấn CFR trong tuần trước so với 2.400-2.450 USD/tấn CFR vào tuần trước đó. Một giao dịch CRC Hàn Quốc nghe nói cũng ở khoảng 2.430-2.440 USD/tấn CFR Trung Quốc trong tuần trước.

Chào giá CRC Đài Loan được nghe nói là 2.400-2.450 USD/tấn CFR vào tuần trước, so với 2.400-2.600 USD/tấn CFR của tuần trước đó. Những người bán trước đó đã chào giá khoảng 2.600 USD/tấn CFR có thể không đạt được vào tuần trước.

Giá có thể giao dịch là 2.350-2.450 USD/tấn CFR vào tuần trước. Một vài nhà máy tuần trước vẫn chiều theo giá đặt mua 2.350 USD/tấn CFR do họ cần nhận đủ đơn đặt hàng tháng 11 để tiếp tục sản xuất. Nhưng mức giá 2.500 USD/tấn CFR không thể đạt được do các khách hàng không vội mua mặc dù giá niken và chào giá thép không gỉ tăng.

Giá niken trên sàn London Metal Exchange tăng tới mức cao của một tháng vào tuần trước. Giá giao dịch chính thức bằng tiền mặt chốt ở mức 16.170-16.175 USD/tấn hôm 20/11, tăng khoảng 1.100 USD/tấn trong tuần qua. 

 Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục giảm mạnh giá thép cây, phôi thanh

Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục giảm mạnh giá thép cây và phôi thanh trong ngày cuối tuần do nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu thấp theo đà suy yếu của phôi thanh và phế nhập khẩu. Sự suy yếu của giá thép cây trong nước đã lên tới 150 TRY/tấn  (67 USD/tấn) trong một tháng.

Nhà máy Kardemir Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục giảm giá thép cây hơn nữa trong ngày cuối tuần. Gía bán thép thanh tròn đặc hiện đạt mức 1.119 TRY/tấn xuất xưởng, giảm 59 TRY/tấn so với giá niêm yết trước ngày 5/11. Thép cây đã giảm cùng mức xuống 1.102 TRY/tấn xuất xưởng.

Công ty này cũng giảm giá niêm yết phôi thanh và phôi lai bloom theo đồng dolla theo xu hướng suy yếu của giá phôi thanh nhập khẩu. Gía bán phôi thanh chuẩn hiện tại là 415-420 USD/tấn xuất xưởng, trong khi giá phôi lai bloom đạt mức 523 USD/tấn xuất xưởng, cùng giảm 70 USD/tấn.

Nhà máy Icdas Thổ Nhĩ Kỳ cũng giảm giá thép cây xuống 85 TRY/tấn. Công ty này thông báo giá bán thép cây 12-32mm tại mức 1.345 TRY/tấn xuất xưởng, tương đương mức 495 USD/tấn chưa tính VAT 18%.       

Công ty này cũng giảm giá thép cây 10mm xuống 1.355 TRY/tấn xuất xưởng trong khi thép cây 8mm hiện tại là 1.365 TRY/tấn xuất xưởng. Gía chào của Icdas đã tính VAT 18%.              

Sau khi cắt giảm giá, giá chào thép cây trong nước hiện tại là 495-505 USD/tấn chưa tính VAT 18% trong khi giá chào xuất khẩu cũng giảm xuống dưới 500 USD/tấn FOB với các giao dịch gần đây nhất.

Giá thép cây Đông Nam Mỹ bình ổn bất chấp áp lực hàng nhập khẩu

Các người mua thép cây tại Đông Nam Mỹ cho biết giá mua thép cây trong nước vẫn chưa chịu bất cứ tác động nào từ giá phế giảm hay áp lực chào bán từ hàng nhập khẩu, tuy nhiên, trong thời gian tới giá sẽ thay đổi.

Một nhà phân phối nhận được giá chào bán đối với  thép cây Thổ Nhĩ Kỳ nhập khẩu vào Floria tại mức thấp 26s/ctw, tức cao hơn mức 520 USD/tấn giao bằng xe tải tới cảng và giao cuối tháng 2. Ông cho biết giá thép cây trong nước đã có một sự điều chỉnh nhẹ.

Một người mua thép cây tại Đông Nam mỹ đồng ý rằng đang tìm kiếm thép cây nội địa để giúp ông cạnh tranh với thép cây nhập khẩu.

Vài thương nhân thép cây gần đây cho biết họ không mua nhiều, chỉ mua đủ để bán do thị trường đang có xu hướng suy yếu.

Một người mua khác cho biết rằng thậm chí nếu các thương nhân chỉ mua đủ số lượng bán cho các nhà môi giới hoặc người tiêu thụ thì vài người  vẫn chưa bán được hết hàng. Điều này sẽ tăng áp lực cho các nhà máy. Gía thép cây nội địa là 600 USD/tấn xuất xưởng.

Một nhà máy thép cây Đông Nam Mỹ cho biết các nhà máy trong nước vẫn chưa điều chỉnh giá mua và giá sẽ bình ổn cho tới cuối năm. Gía thép cây tại Đông Nam, ngoại trừ Florida, vẫn ở mức 640 USD/tấn xuất xưởng. Chênh lệch giá giữa thép cây trong nước và nhập khẩu sẽ cận mức 100 USD/tấn trong tháng 2 và 3.

Một nhà phân phối cũng đồng tình rằng các nhà nhập khẩu đang tỏ ra thận trọng trong việc mua thép cây do giá tiếp tục giảm.

Một nhà máy thép cây tại Đông nam Mỹ cho biết sức mua đã cải thiện và và nhận được nhiều đơn hàng hơn từ vài lĩnh vực công nghiệp. Điều này cho thấy các nhà máy đang không cạnh tranh mạnh mẽ.

Trong tháng 10, Gerdau Long Steel North America đã thông báo rằng nó dự định tăng giá thép cây thêm 10-15%, tuy nhiên, nhà máy này không chắc chắn liệu việc kinh doanh có được cải thiện không.

Một nhà môi giới cho biết vẫn mua được thép cây tại mức 650-670 USD/tấn xuất xưởng. 

Platts định giá thép cây tại mức 620-640 USD/tấn xuất xưởng trong ngày cuối tuần.

Sức mua yếu gây ảnh hưởng xấu đến giá ống đúc ở miền đông Trung Quốc 

Giá nguyên liệu đang giảm cùng với viễn cảnh u ám về lĩnh vực xây dựng và chế tạo máy móc tiếp tục gây sức ép lên thị trường ống đúc giao ngay ở Thượng Hải trong tuần trước.

Thật may cho các nhà máy, giá thép tròn đặc ổn định vẫn hỗ trợ cho giá xuất xưởng và thị trường giao ngay.

Giá giao ngay của ống đúc 20# 219x6mm (GB/T 8163) từ các nhà máy ở miền đông- vẫn duy trì mức 3.600 NDT/tấn (588 USD/tấn) gồm VAT 17% ở Thượng Hải hôm thứ Sáu, không đổi so với tuần trước đó.

Toàn thị trường vẫn đang chờ xem. Về cơ bản, nhu cầu đang thu hẹp lại do mùa đông đến, trong khi giá quặng sắt suy yếu đã loại bỏ bất kỳ khả năng hỗ trợ nào từ nguyên liệu. Thị trường ống đúc giao ngay đang đợi xem các nhà sản xuất thép tròn đặc và các nhà máy ống đúc có lẽ sẽ thay đổi giá của họ như thế nào.

Hôm 11/11, các nhà sản xuất thép tròn đặc lớn ở miền đông cho biết họ sẽ duy trì giá bán cho thép tròn đặc 20# từ ngày 21-30/11. Giá của thép tròn đặc 20# 50-130mm được sản xuất từ hai nhà máy lớn ở tỉnh Giang Tô là Zenith Steel Group và Changqiang Iron & Steel vẫn ở mức lần lượt là 3.120 NDT/tấn và 3.070 NDT/tấn xuất xưởng gồm VAT.

Trong khi đó, giá của loại thép tròn đặc tương tự được cung cấp bởi Huaigang Special Steel ở Giang Tô vẫn không đổi ở mức 3.100 NDT/tấn. 

Shagang giảm giá thép cây cuối tháng 11 xuống 13 USD/tấn

Đà giảm mạnh trên thị trường thép cây trong nước vào tuần trước buộc Shagang phải hạ giá xuất xưởng từ ngày 21-30/11 xuống 80 NDT/tấn (13 USD/tấn).

Theo đó, giá xuất xưởng của Shagang cho thép cây HRB400 đường kính 16-25m giảm còn 3.020 NDT/tấn (493 USD/tấn) gồm VAT 17%. Nhà máy cũng cam đoan sẽ bồi hoàn lại 70 NDT/tấn cho những đơn hàng đặt giữa tháng 11.

Shagang cũng đã hạ giá xuất xưởng cho cuộn trơn nhưng với biên độ nhỏ hơn chỉ có 30 NDT/tấn còn 3.010 NDT/tấn, gồm VAT.

Trong khi đó giá quặng sắt suy yếu, sức mua thép trì trệ và những quan ngại về nguồn cung thép thanh gia tăng từ các nhà máy ở miền bắc đã kéo giá thép cây ở miền đông giảm đáng kể trong tuần trước.

Hôm thứ sáu, Platts định giá thép cây HRB400 đường kính 18-25mm tại thị trường Thượng Hải giảm mạnh 80 NDT/tấn so với tuần trước còn 2.790-2.820 NDT/tấn tính theo trọng lượng lý thuyết và gồm VAT.

Gần thành phố Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang, giá giao ngay cho thép cây HRB400 được sản xuất từ Shagang giảm tổng cộng khoảng 180-190 NDT/tấn so với ngày 11/11.

Một đại lý ở Thượng Hải cho rằng một trong những nhân tố chính khiến giá giao ngay đi xuống là do việc giao hàng được dự đoán sẽ tăng lên từ các nhà máy ở miền bắc. Ông cho biết lượng thép dự trữ trong khu vực ngay lập tức sẽ thấy tăng lên đáng kể do một số lô hàng mới từ phương bắc theo dự kiến sẽ đến vào ngày thứ Hai.

Trong khi đó, hợp đồng giao sau suy yếu hơn cũng phủ bóng đêm lên thị trường giao ngay. Hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 05 trên sàn Shanghai Futures Exchange hôm thứ ba tuần trước giảm 2,86% còn 2.442 NDT/tấn và chỉ phục hồi nhẹ lên 2.448 NDT/tấn vào ngày thứ Sáu, sau khi tăng được 9 NDT/tấn. 

Benxi I&S duy trì giá HRC 

Benxi Iron & Steel (Bengang) duy trì giá xuất xưởng HRC cho tháng 12. Theo đó, HRC Q235 5.5mm vẫn ở mức 3.490 NDT/tấn (570 USD/tấn) chưa có VAT 17%.

Đồng thời, nhà máy cũng giảm giá xuất xưởng CRC cho tháng 12 xuống 50 NDT/tấn, trong khi lại giữ giá HDG không đổi. Theo đó, CRC DC01 1.0 của Bengang giảm còn 3.780 NDT/tấn, HDG DC51D+Z 1.0mm duy trì 4.480 NDT/tấn chưa có VAT.

Hầu hết các nhà máy lớn như Bengang, Baosteel, Shougang và Anshan Iron & Steel đều cam kết giữ giá xuất xưởng HRC tháng 12 không đổi, nên các thương nhân thậm chí còn chắc chắn hơn rằng giá HRC giao ngay không có cơ hội phục hồi trong suốt thời gian còn lại của năm nay.

Platts định giá HRC Q235 5.5mm ở Thượng Hải là 2.970-2.990 NDT/tấn gồm VAT, không đổi so với ngày trước đó.

Một thương nhân miêu tả thị trường rất ư ảm đạm do sức mua trì trệ cộng thêm thanh khoản eo hẹp. Ông cho biết thanh khoản sẽ chỉ trở nên xấu hơn vào cuối năm và cũng dự báo không có sự cải thiện đáng kể nào về sức mua hay giá trên thị trường giao ngay trong tháng này hay tháng tới.

Một người khác thừa nhận sự thờ ơ trên thị trường gần đây, ông này không có dự định tích trữ thêm hàng trong thời gian ngắn. Giá HRC đã thực sự bình ổn gần đây nhờ tồn kho thị trường thấp, nhưng giá quặng sắt đang giảm đã tạo thêm cơ hội cho giá thép suy yếu.

Theo các nguồn tin thị trường, HRC tồn kho tại Thượng Hải tiếp tục đà giảm 1,8% so với ngày 14/11 còn 587.000 tấn hôm 21/11. 

Giá xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ giảm theo giá phế

Giá chào xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ giảm trong tuần qua theo giá phế và quặng.

Một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ cho biết các nhà máy đang chào bán tại mức 495 USD/tấn FOB và giả thuyết rằng mức 490 USD/tấn mới được người mua chấp nhận. Giao dịch gần đây từ một nhà máy EAF tới người mua UAE có khối lượng 40.000 tấn đạt mức 500 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết (490 USD/tấn trọng lượng thực tế).

Một lô hàng được bán sang Yemen đạt mức 520 USD/tấn CFR đối với khối lượng 15.000 tấn. Đối với các lô hàng khối lượng nhỏ, chi phí vận chuyển không cố định nên chưa có giá giao dịch chính xác. Một nhà máy thép cây chào bán ở mức 495-500 USD/tấn FOB. 

Một thương nhân khác cho biết tâm lý thị trường Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm trở lại trong ngày cuối tuần. Một nhà máy đã bán 131.000 tấn phôi thanh tại mức 415 USD/tấn, gần với giá FOB CIS. Một đại lý phân phối phế Ferrite tin rằng giá phế sẽ còn giảm nữa và ảnh hưởng xấu tới giá thép cây.

Thị trường nhập khẩu phôi thanh trì trệ ở Đông Nam Á  

Việc thu mua phôi thanh thưa thớt ở Đông Nam Á tuần trước trong bối cảnh tâm lý bi quan về phế và quặng sắt. Phôi thanh Trung Quốc tiếp tục được chào giá 440-445 USD/tấn CFR ở khu vực này gồm Đài Loan, Indonesia và Philippines.

Nhưng người mua đang thờ ơ với thép của Trung Quốc bởi vì tin đồn lan rộng về việc giảm thuế xuất khẩu cho thép chứa nguyên tố bo trong đó có phôi thanh có thể được gỡ bỏ sớm nhất là vào năm tới.

Một lô phôi thanh Trung Quốc 20.000 tấn giao tháng 10 được bán ở Philippines hồi tuần trước với giá 445 USD/tấn CFR. Chào giá mới cho hàng vận chuyển tháng 01 là 440 USD/tấn CFR nhưng các hợp đồng sẽ bao gồm điều khoản là người mua phải chịu một nửa chi phí của bất kỳ sự thay đổi giảm thuế nào.

Một thương nhân Manila cho biết người mua đang tránh xa thị trường và đợi cho giá giảm sâu hơn do phế và quặng sắt suy yếu.

Tại Thái Lan, một số người cho biết chào giá phôi thanh Nhật Bản vẫn duy trì mức 460-465 USD/tấn CFR Thái Lan,  nhưng không có giao dịch nào khác được thực hiện ngoài một hợp đồng với giá 465 USD/tấn CFR trong suốt tuần 14/10.

Các nhà nhập khẩu Thái Lan đang chờ đợi bởi vì giá phôi thanh Biển Đen đã giảm mạnh còn 415 USD/tấn FOB. Các thương nhân ước tính mức giá này tương đương 455-460 USD/tấn CFR Thái. Người mua không vội đặt hàng bởi vì kinh doanh thép cây của họ không được tốt. Có tin đồn phôi thanh Biển Đen được bán tới Thổ Nhĩ Kỳ với giá 422 USD/tấn CIF, tức dưới 410 USD/tấn FOB.

Phôi thanh Biển Đen có thể là nguồn hàng cạnh tranh sắp tới vào khu vực này. Phôi của CIS không có sự bất ổn trong khi phôi thanh Trung Quốc có khả năng sẽ xảy ra những thay đổi giảm thuế xuất khẩu.

Platts định giá phôi thanh nhập khẩu của Đông Á thu hẹp còn 450-460 USD/tấn CFR hôm thứ Sáu từ mức 450-465 USD/tấn CFR của tuần trước đó. 

 Các nhà máy CIS giảm giá chào xuất khẩu thép cuộn

Giá xuất khẩu HRC Biển Đen tiếp tục trượt giảm trong tuần qua, đạt mức 470-480 USD/tấn FOB.

Giá chào bán HRC sản xuất tháng 12 giao tháng 1 từ nhà máy Nga đạt mức 485 USD/tấn FOB, tuy nhiên, người mua chỉ chào mua ở mức 480 USD/tấn FOB. Một thương nhân xác nhận một đơn hàng giao tới Bắc Phi đạt mức 480 USD/tấn FOB.

Giá chào CRC cao hơn giá HRC 65 USD/tấn. HDG được chào bán tại mức 670 USD/tấn FOB.

Giá chào HRC Nga tới thị trường Thổ Nhĩ Kỳ đạt mức 500 USD/tấn CFR. HRC và CRC chào tới Đông Nam Âu từ nhà máy Ukraina là 515-520 USD/tấn CIF và 580-585 USD/tấn CIF.

Người mua ước tính giá thực tế đối với HRC Ukraina sẽ là 460-465 USD/tấn FOB Biên Đen nếu giá chào từ Nga là 480-485 USD/tấn.

Các nguồn tin cho biết áp lực lên giá thép dường như vẫn còn tồn tại trong thời gian ngắn tới do nhu cầu tiêu thụ trầm lắng trong mùa đông. Đặc biệt với sự suy yếu của đồng dolla, giá nguyên liệu thô giảm, các chống bán phá giá Mỹ đối với HRC nhập khẩu từ Nga và áp lực từ Trung Quốc.

Platts hạ giá HRC CIS xuống 5 USD/tấn còn 475 USD/tấn FOB trong ngày cuối tuần trong khi CRC cũng giảm 5 USD/tấn xuống còn 560 USD/tấn FOB.