Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 22/9/2016

Giá xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ ổn định trong bối cảnh điều tra bán phá giá mới ở Mỹ

Mặc dù một số dự đoán trước đó cho rằng giá xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ vẫn chủ yếu dao động trong phạm vi với chào giá giảm trước lễ Eid nhưng phần lớn đã ổn định trong tuần này do nhu cầu tiêu thụ suy yếu và những cáo buộc bán phá giá của Mỹ.

Giá chào bán hôm thứ Tư đứng ở mức 375-380usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ. Đối với Mỹ chào giá được chốt ở mức 390usd/tấn CNF Gulf và 395usd/tấn CNF Bờ Đông. "Hôm qua giá đã đi xuống cho chắc chắn hôm nay thì không," một thương nhân nhận xét. Doanh số bán 20.000-25.000 tấn bởi một nhà máy cấp một lớn chốt ở mức 390usd/tấn CNF Houston giao tháng 10. Một lô hàng 20.000 tấn được ký kết bởi một nhà máy Iskenderun đến Ai Cập ở mức 390usd/tấn CFR, một nguồn tin cho biết.

Hôm thứ tư trên thị trường rõ ràng đã được khuấy động bởi đơn kiện mới được nộp bởi các nhà máy Mỹ để mở một cuộc điều tra vào thép cây nhập khẩu từ Thổ Nhĩ Kỳ, Đài Loan và Nhật Bản. Điều này có thể cung cấp một số hỗ trợ cho giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ đến  Mỹ, một số nguồn tin dự đoán.

Những người tham gia thị trường không chắc thuế chống bán giá đáng kể sẽ được áp đặt hay không nhưng dự đoán thị trường sẽ bị ảnh hưởng bởi nguy cơ của các biện pháp truy thu trong khi chờ đợi.

Một nhà quan sát thị trường ở Thổ Nhĩ Kỳ giải thích rằng thời hạn cho kết quả sơ bộ của cuộc điều tra là 19/04, qua đó hàng cập bến vào Mỹ trong 90 ngày trước đó đó (từ tháng 18/01) sẽ chịu truy thu thuế.

 

Platts định giá thép cây hàng ngày ở 375usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ, lên mức 2,50usd/tấn trong ngày.

Định giá HRC EU

Platts duy trì định giá HRC châu Âu ở mức 435-450euro/tấn xuất xưởng Ruhr thứ Tư.

Khoảng cách giữa phía bắc và phía nam châu Âu đang thu hẹp lại, với một giao dịch ở Italy nghe nói ở mức 430euro/tấn xuất xưởng, trong khi ở phía bắc châu Âu mọi người cho là thị trường được đặt trong phạm vi 435-445euro/tấn, trong khi đó một người mua Benelux nói rằng các công ty tư nhân phải trả đến 450euro/tấn.

 

Platts tăng mức trung điểm giá nhập khẩu thêm 2,50euro/tấn theo đó phạm vi giá lên mức 425-430euro/tấn CIF Antwerp dựa vào giá chào từ Thổ Nhĩ Kỳ và Ấn Độ. 

Thép cây và phôi thanh Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục suy yếu do nhu cầu tiêu thụ chậm

Giá thép cây trong nước và xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ vẫn suy yếu sau lễ Eid tuần trước, trong bối cảnh khối lượng thương mại thấp và giá phế nhập khẩu trong thu mua gần đây của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ suy giảm hơn nữa.

Icdas, một trong những nhà sản xuất thép dài lớn nhất của Thổ Nhĩ Kỳ, đã giảm mạnh giá niêm yết trong nước đối với thép cây và cuộn trơn là 50-60 TRY(17-20usd) /tấn thứ Hai. Công ty này Marmara bắt đầu chào giá thép cây 12-32mm ở mức 1.370 TRY/tấn xuất xưởng cho Istanbul và 1.350 TRY/tấn xuất xưởng cho Biga - tương đương 390usd/tấn và 383usd/tấn tương ứng - không bao gồm 18% thuế VAT.

Cùng với quyết định giảm giá của Icdas  một số nhà sản xuất khác, giá bán phổ biến của nhà tích trữ trong thị trường nội địa cho thép cây cũng bắt đầu giảm. Giá xuất kho cho thép cây 8-12mm, trong phạm vi  1.380-1.400 TRY/tấn (bao gồm 18% VAT) trong tuần này, giảm 10-20TRY/tấn. Giá nhà tích trữ tại khu vực miền Karabuk cũng giảm một khoảng tương tự còn 1.360-1.380 TRY/tấn, trong khi giá cả ở khu vực Iskenderun, miền nam Thổ Nhĩ Kỳ, thấp hơn ở mức 1.340-1.360 TRY/tấn.

Trong khi đó, giá phôi thanh trong nước ở Thổ Nhĩ Kỳ vẫn tương đối ổn định ở mức 340-350usd/tấn xuất xưởng trong tuần này, trong khi chào giá phôi thanh của các nhà máy CIS vẫn trong khoảng 330-340usd/tấn CIF Thổ Nhĩ Kỳ, do tín hiệu suy yếu hơn trong chào giá phôi thanh Trung Quốc .

Các nhà máy Thổ Nhĩ vẫn theo xu hướng ra khỏi thị trường phôi và phế l trong những ngày gần đây, trong bối cảnh nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu đang diễn ra chậm chạp, và điều này đang gây áp lực lên giá phế và phôi thanh nhập khẩu. Nhưng nhà máy dự kiến  bắt đầu mua phế liệu dần dần trở lại trong tuần này.

Định giá thép cây FOB Thổ Nhĩ Kỳ

Platts định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 375usd/at61n FOB Thổ Nhĩ Kỳ hôm thứ Tư, tăng 2,5% trong ngày.

Một nguồn tin nhà máy đưa ra mức giá chào là 375-380usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ, và nói thêm sẽ không chấp nhận mức giá dưới 375usd/at61n FOB. Chào giá đến thị trường Mỹ nghe nói ở mức 390-395usd/tấn CFR Houston, tương đương 380usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ. Mức giá này được cho là giá giao dịch cho đơn hàng nhỏ hơn 3.000-4.000 tấn.

Một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ đưa ra chào giá ở mức 375-380usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ tuần này, mức này cũng được xác nhận bởi một nguồn tin ở châu Âu.

Doanh số bán 20.000-25.000 tấn bởi một nhà sản xuất cấp một được biết ở mức 390usd/tấn CNF Houston giao tháng 10; một doanh số bán 20.000 tấn nữa nghe nói ở mức 390usd/tấn CNF Ai Cập trọng lượng lý thuyết, tương đương khoảng 380usd/tấn FOB trọng lượng thực tế.

 

Platts nâng định giá lên mức 375usd/tấn FOB phản ánh mức thấp nhất trong phạm vi giá giao dịch được thị trường thông báo ở mức 375-380usd/tấn FOB trong ngày. 

Sản lượng thép thế giới tăng 1,9% trong tháng 8, công suất sử dụng ổn định

Sản lượng thép thô tại 66 nước theo báo cáo từ Hiệp hội Thép thế giới đạt 134,1 triệu tấn trong tháng 8, hơn 1,9% so với cùng kỳ năm ngoái và cao hơn một chút so với 133,7 triệu tấn của tháng 7/2016.

Công suất sử dụng của ngành thép trong tháng trước đạt 68,5%, tăng nhẹ 0,1 điểm so với tháng 7 và 0,5 điểm so với tháng 8/2015.

Kết quả tháng 8 dẫn đến tổng sản lượng cho 8 tháng đầu năm 2016 đạt 1.065 triệu tấn, chỉ giảm 0,9% so với cùng kỳ năm 2015. 66 quốc gia trong báo cáo của hiệp hội chiếm 99% sản lượng toàn cầu năm 2015.

Sản lượng tháng 8 của Trung Quốc tăng 3% so với năm trước và 68,6 triệu tấn chiếm 51,1% tổng sản lượng thế giới. Các quốc gia Châu Á khác cũng báo cáo sản lượng tăng, với Nhật Bản tăng 1,5%, Ấn Độ tăng 9,4% và Hàn Quốc là 1,8%.

Hầu hết các khu vực khác trên thế giới đều có sản lượng sụt giảm trong tháng 8. Cụ thể, sản lượng tại Bắc Mỹ giảm 3% còn 9,5 triệu tấn với sự sụt giảm ở Mỹ và Canada chỉ được bù lại một phần bởi sự gia tăng tại Mexico. Sản lượng tại Nam Mỹ giảm 6,6%, cụ thể là ở Brazil, Argentina và một số nước khác.

Tại Châu Âu, sản lượng đạt 11,97 triệu tấn, thấp hơn 1,4% so với cùng kỳ năm 2015. Đức, Italy, Hà Lan và Bỉ đều báo cáo tăng nhưng lại bị áp đảo bởi mức giá ở Pháp, Tây Ban Nha, Anh và Ba Lan. Sản lượng tại Thổ Nhĩ Kỳ chỉ tăng gần 13% so với năm trước.

Sản lượng của CIS đạt 8,4 triệu tấn, giảm 2,7% với sự sụt giảm tại Nga, Ukraine và Belarus. Tại Trung Đông chỉ có Iran và UAE là có sản lượng tăng. Sản lượng Châu Phi giảm 6%.

Các nhà máy thép cây Châu Á phản hồi về vụ kiện chống bán phá giá của Mỹ

Phản ứng trước quyết định về vụ kiện chống bán phá giá của Mỹ đối với việc nhập khẩu thép cây, phát ngôn viên của công ty sản xuất thép cây lớn nhất Đài Loan là Feng Hsin Steel cho biết công ty của ông trên thực tế không xuất khẩu bất cứ loại thép cây nào. “Và về phía các công ty Đài Loan được chọn để xuất khẩu, nó có thể thuộc trường hợp đặc biệt, giống như khi họ điều chỉnh sản lượng”.

Tại Nhật Bản, số liệu thương mại chính thức cho thấy các doanh nghiệp sản xuất thép cây trên cả nước quả thực là những nhà xuất khẩu tích cực. Trong năm tài khóa 2015, Nhật Bản đã xuất khẩu tổng cộng 224.703 tấn ra thế giới, tăng 181% so với 2014 và 558,4% so với 2013. Trong số đó, xuất khẩu tới Mỹ chiếm 53% trong năm 2015, so với 40,5% của năm 2014 và 14,2% năm 2013.

Giám đốc điều hành một công ty mini hàng đầu của Nhật cho rằng xuất khẩu tới Mỹ tăng bởi vì nhu cầu tại Nhật ảm đạm và giá thị trường ở Mỹ nhìn chung tốt hơn.

Tuy nhiên, nhu cầu tại Nhật được dự báo sẽ tăng từ nửa cuối năm nay và các công ty sản xuất thép cây sẽ không cần phải xuất khẩu ồ ạt sang Mỹ, nhất là khi thuế AD cao sẽ làm giảm tính cạnh tranh của họ.

Ngoài ra, thép cây của Nhật đang được vận chuyển qua Thái Bình Dương là loại thương phẩm chứ không phải loại chuyên dụng. Thông thường khi các doanh nghiệp thép Nhật Bản bị cáo buộc làm ăn không công bằng thì họ lập luận rằng các sản phẩm của họ là loại chất lượng cao hoặc được làm theo thông số kỹ thuật đặc biệt mà các doanh nghiệp trong nước không thể sản xuất được, và vì vậy việc kinh doanh của họ không thể bị thiệt hại bởi việc nhập khẩu thép từ Nhật được.

Nhưng trong trường hợp này các doanh nghiệp sản xuất thép cây của Nhật biết rằng khách hàng người Mỹ có thể mua được thép cây chất lượng tương đương từ nhiều nhà cung cấp khác và vì vậy khó mà thách thức quyết định cuối cùng của Washington. “Họ sẽ chỉ cố gắng để chuyển hướng từ xuất khẩu tới Mỹ sang thị trường Nhật Bản”.

Định giá phôi thanh CIS

Platts định giá xuất khẩu phôi thanh CIS hàng ngày tại mức 317,50usd/tấn FOB Biển Đen thứ Tư, ổn định trong ngày.

Chào giá từ các nhà cung cấp CIS duy trì ổn định trong khoảng 320-325us/tấn FOB Biển Đen. Một nhà máy Ukraine cho biết đang thử nghiệm trên thị trường với mức 330usd/tấn FOB nhưng chào giá mua thấp hơn nhiều.

Báo giá đến Thổ Nhĩ Kỳ vẫn không cạnh tranh tại mức 335usd/tấn CNF, tương đương 320-325usd/tấn FOB Biển Đen/Biển Azov. Theo một thương nhân ở Thổ Nhĩ Kỳ, giá khả thi cho các nhà cán lại sẽ là 315usd/tấn CNF.

Platts duy trì định giá tại mức 317,50usd/tấn FOB, mức giá nằm trong phạm vi mức chào giá thấp nhất (320usd/tấn FOB). Mức định giá này cũng phù hợp với các giao dịch nhất được thực hiện tại mức 316usd/tấn FOB Biển Azov và mức tối đa được xem là chấp nhận chung bởi người mua là 315usd/tấn FOB trong tuần này.

Thu mua tấm mỏng ít ỏi, lựa chọn hàng nhập khẩu hạn chế

Thép cuộn cán nóng và cán nguội của Mỹ vẫn sa lầy trong một thị trường tiêu thụ trì trệ và sức mua yếu ớt hôm thứ Tư, trong khi giá trong nước thấp hơn đã không thúc đẩy lượng mua lớn và các tùy chọn nhập khẩu còn hạn chế.

Platts duy trì định giá HRC và CRC trong nước hàng ngày tại mức 520-560usd/tấn ngắn và  750- 780usd/tấn ngắn, tương ứng. Cả hai giá này đều được chuẩn hóa theo cơ sở giá xuất xưởng Midwest (Indiana).

Mặc dù giá cả đang trì trệ, một nguồn tin nhà máy cho biết công ty của ông tiếp tục đặt lượng nhỏ HRC tại mức 580-600usd/tấn ngắn. Các nhà máy khác có giá thấp hơn đáng kể - khoảng  540usd/tấn ngắn, xuất xưởng - nhưng ông nói rằng việc cắt giảm giá của nhà máy dối thủ đã thất bại trong việc lôi kéo các đơn đặt hàng và thúc đẩy nhu cầu tiêu thụ.

Áp lực lên giá nội địa dường như chủ yếu là do sự cạnh tranh giữa các nhà sản xuất trong nước, vì các tùy chọn nhập khẩu HRC và CRC hạn chế, với giá nhập khẩu CRC thu hút hơn một chút.

Một thương nhân cho biết chào giá HRC nhập khẩu trong  khoảng 480usd/tấn ngắn vận chuyển đến Houston. Chào giá  Thổ Nhĩ Kỳ vẫn là nguồn nguồn HRC chính từ nước ngoài, nhưng thương nhân này đã nghe nói về chào giáAi Cập cũng  đang trở lại thị trường.

Đối với CRC, thương nhân này cho biết chào giá Thổ Nhĩ Kỳ và Việt Nam vào khoảng 540-560usd/tấn ngắn CFR Houston. Chào giá Việt nam cũ hơn một chút một chút nhưng liên quan đến các lô hàng giao tháng 12 và cập cảng trong quý 1/2017.

Một thương nhân thứ hai cho biết giá nhập khẩu CRC hiện tại là khá gần với báo cáo 544usd/tấn ngắn CFR từ Thổ Nhĩ Kỳ, trong khi Việt Nam cao hơn ở mức 558usd/tấn ngắn CFR. Một nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đang cho đặt hàng giao tháng 01 và một nhà máy khác vừa hoàn thành đặt hàng giao tháng 12.

Một thương nhân thứ ba cho biết chào giá CRC cạnh tranh nhất là từ Việt Nam. Tuy nhiên, bất chấp sự suy giảm gần đây của giá ông nghĩ rằng sự cắt giảm giá là không cần thiết khi thị trường vẫn chưa sẵn sàng để mua, ngay cả ở những con số thấp hơn. Thương nhân này cho biết, ông đã nhìn thấy CRC Việt Nam tại mức 560-570usd/tấn ngắn CFR.

 

Platts hạ định giá CRC nhập khẩu hàng ngày còn 545-560usd/tấn ngắn, giảm từ mức 590-610usd/tấn ngắn. Định giá nhập khẩu HRC hàng ngày không đổi ở mức 470-480usd/tấn ngắn. Cả hai giá này dựa trên cơ sở CIF Houston.

Kyoei Steel nâng giá thép cây

Kyoei Steel, công ty sản xuất thép cây lớn nhất Nhật Bản, đã quyết định sẽ nâng giá thép cây trong nước thêm 3.000 Yên/tấn (29 USD/tấn) cho các hợp đồng tháng 10. “Lần tăng này là để tái tạo lại thị trường và để chúng tôi cải thiện sức khỏe tài chính của mình”, đại diện nhà máy cho hay.

Với mức tăng này Kyoei Steel đang đặt mục tiêu giá hợp đồng thép cây đạt 5.000 Yên/tấn mặc dù mức giá này vẫn không đủ cao để tạo ra lợi nhuận. “Chúng tôi đã không thay đổi giá chỉ tiêu của mình- mức giá này vẫn còn 55.000 Yên/tấn- nhưng chúng tôi dự định đạt được mức mục tiêu càng sớm càng tốt để sản xuất ổn định.

Kyoei Steel đã tăng thêm 11.000 Yên/tấn cho giá thép cây kể từ tháng 4 trong cuộc hành trình đạt được mức mục tiêu 55.000 Yên/tấn, nhưng nhu cầu thép cây trong nước đã trì trệ và giá thị trường giảm.

Giá thị trường hiện nay cho thép cây cỡ thường SD295 tại Osaka là khoảng 48.000-49.000 Yên/tấn (472-482 USD/tấn), không đổi so với 1 tháng trước đó nhưng giảm 1.000 Yên/tấn  so với tháng 5.

Động thái của Kyoei trái ngược với Tokyo Steel Manufacturing khi công ty này giảm giá niêm yết xuống 3.000-7.000 Yên/tấn cho hợp đồng tháng 10. Giá thép cây cỡ thường của Tokyo Steel hiện nay thấp hơn 7.000 Yên/tấn và còn 47.000 Yên/tấn.

Một nhà phân phối ở Tokyo thừa nhận rằng trông có vẻ lạ khi Tokyo Steel giảm giá trong khi Kyoei Steel lại nâng giá. “Nhưng giá thực tế của mỗi công ty đều gần như giống nhau, vì vậy nếu chúng tôi rà soát lại giá của họ một cách cẩn thận thì có thể hiểu được, nhưng khách hàng có thể sẽ trở nên bối rối. Nhưng chúng tôi nhìn thấy điều này khi giá thị trường bắt đầu tăng và chúng tôi hy vọng giá cao hơn sẽ thâm nhập trước khi nhu cầu thực tế xuất hiện”.

Thép cây duy trì ổn định tại Châu Á do giá Trung Quốc không đổi

Hôm 21/9, giá thép cây nhập khẩu tới Châu Á duy trì ổn định trong ngày thứ hai liên tiếp khi giá Trung Quốc vẫn không thay đổi. Các nhà xuất khẩu Trung Quốc vẫn giữ chào giá của họ trong khi người mua rời khỏi thị trường, vì nhìn thấy giá rớt hơn nữa. Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm duy trì mức 331-335 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế.

Một nhà máy ở miền đông duy trì chào giá ổn định mức 335 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết, tương đương 345 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với dung sai khối lượng 3%. Một nhà máy khác ở miền đông đã chào giá 350 USD/tấn CFR Hong Kong trọng lượng thực tế, tương đương 341 USD/tấn FOB phí vận chuyển 9 USD/tấn. Tuy nhiên, người mua tại Hong Kong chỉ đưa ra giá 335 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế (326 USD/tấn FOB), mức này là quá thấp để các nhà máy chấp nhận. Các nhà máy sẵn sàng nhận đơn hàng với giá khoảng 340 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế (331 USD/tấn FOB).

Hai nhà máy khác giữ chào giá 345 USD/tấn CFR Singapore trọng lượng lý thuyết (tương đương 342 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với phí vận chuyển 13 USD/tấn và dung sai khối lượng 3%) và 345 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế.

Chào giá thép cây Trung Quốc tới Singapore vẫn còn khoảng 345-350 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết (342-347 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế). Một trong số họ đã xác nhận rằng một số thương nhân chào giá thấp 343 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết (340 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế). Người khác cho biết khách hàng bây giờ dự báo giá sẽ rớt thêm nữa và có khả năng họ sẽ mua với giá khoảng 320 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết (316 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế).

Shagang giảm giá thép cây cuối tháng 9 xuống 15 USD/tấn

Jiangsu Shagang Group, công ty sản xuất thép tư nhân lớn nhất Trung Quốc, thông báo hôm 21/9 đã hạ giá niêm yết cho thép cây trong nước xuống 100 NDT/tấn (15 USD/tấn) cho 10 ngay cuối tháng 9.

Theo đó, giá thép cây HRB400 đường kính 16-25mm của giảm xuống 2.450 NDT/tấn (367 USD/tấn) xuất xưởng và gồm 17% VAT. Hơn thế, Shagang sẽ trợ giá cho các đại lý của mình khoản tiền 60 NDT/tấn cho những đơn hàng được đặt vào 10 ngày giữa tháng 9.

Đây là lần giảm giá thứ hai liên tiếp của Shagang, sau khi giảm 80 NDT/tấn vào 10 ngày giữa tháng 9.

Trong khi đó, Shagang duy trì giá cuộn trơn HPB300 ở mức 2.610 NDT/tấn gồm VAT.

Cũng trong ngày thứ Tư, hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 1/2017 trên sàn Shanghai Futures Exchange giảm nhẹ 7 NDT/tấn (0,3%) so với ngày trước đó chốt tại 2.257 NDT/tấn.

Hebei I&S giảm giá thép cây xuống 15 USD/tấn cho 10 ngày cuối tháng 9

Hebei Iron & Steel (Hegang), công ty sản xuất thép lớn nhất miền bắc Trung Quốc, thông báo hôm 21/9 sẽ giảm giá niêm yết cho thép cây 10 ngày cuối tháng 9 xuống 100 NDT/tấn (15 USD/tấn).

Giá này là cho các sản phẩm được sản xuất bởi Tangshan Iron & Steel, Xuanhua Iron & Steel (Xuangang) và Chengde Iron & Steel (Chenggang) để bán ra khu vực Bắc Kinh và Thiên Tân, tính theo trọng lượng lý thuyết và giá xuất xưởng, gồm VAT.

Hà Bắc sẽ trợ giá cho các đại lý của mình với khoản bồi hoàn 50 NDT/tấn (7,5 USD/tấn) cho những đơn hàng đặt mua vào 10 ngày giữa tháng 9. Bằng cách làm như vậy, công ty đang cố gắng rút ngắn khoảng cách giữa giá niêm yết của mình với giá trên thị trường giao ngay.

Giá cuối tháng 9 của Hegang tương đương với 2.505 NDT/tấn trọng lượng thực tế cho những loại có thông số kỹ thuật như Platts định giá.

Hôm 21/9, Platts định giá giao dịch cho thép cây HRB400 đường kính 18-25mm ổn định so với ngày trước đó và giữ ở mức 2.475-2.495 NDT/tấn (371-374 USD/tấn) xuất xưởng trọng lượng thực tế và gồm VAT.

Hàn Quốc: Các cuộc đàm phán giá thép cây quý 4 đã bắt đầu

Vòng đàm phán đầu tiên tại Hàn Quốc về giá thép cây trong nước cho quý 4 giữa các nhà sản xuất thép cây mà dẫn đầu là Hyundai Steel với các nhà thầu xây dựng trong nước đã triệu tập hôm thứ Tư. Chuyện gì xảy ra thì vẫn chưa biết nhưng chắc chắn là các nhà máy muốn có thêm tiền trong khi các công ty thầu xây dựng thì muốn giảm giá.

Trong mùa hè, các công ty sản xuất thép cây và thầu xây dựng cuối cùng đã đồng ý duy trì giá cho quý 3, theo đó thép cây đường kính 10mm vào giữa tháng 9 là 585.000 Won/tấn (524 USD/tấn).

Trong suốt những cuộc đàm phán này các doanh nghiệp thép ban đầu đã yêu cầu tăng 20.000 Won/tấn trong khi các công ty thầu xây dựng, đại diện bởi Hiệp hội bộ phận thu mua xây dựng Hàn Quốc (KCPPA), đã gây sức ép giảm ở mức tương tự. Đối với quý 4, vị trí đàm phán là giống hệt nhau với duy nhất biên độ vẫn được quyết định.  

 “Công thức thiết lập giá thép cây vẫn là một yếu tố chính quyết định cơ bản các cuộc đàm phán. Tuy nhiên, nhiều yếu tố vĩ mô cũng được xem xét”, đại diện KCPPA giải thích. Trong suốt quý 2, cả hai bên đã đồng ý công thức thiết lập giá thép cây phản ánh giá phế bình quân tháng cuối cùng của quý trước đó- 70% giá phế trong nước, 20% phế Nhật và 10% phế Mỹ.

Vẫn còn lại khoảng 1 tuần trong tháng 9 và cả hai bên sẽ theo dõi diễn biến giá phế cho tới cuối tháng này để có được số liệu cụ thể hơn.

Các công ty sản xuất thép cây đang kỳ vọng giá quý 4 tăng vì ngành xây dựng đang bước vào mùa cao điểm trong mùa thu. Tồn kho thép cây trên cả nước cũng có thể giảm xuống còn chưa tới 150.000 tấn so với mức hiện tại 200.000 tấn trong tương lai gần.

Nhưng xây dựng nhà ở đang bắt đầu chậm lại. Thực vậy, theo Hiệp hội Xây dựng Hàn Quốc, giấy phép được cấp trong 7 tháng đầu năm nay cho xây dựng mới trên cả nước chỉ tăng 2,6% lên 10,6 triệu hecta.

Cuộn trơn Châu Á lại giảm do chào giá Trung Quốc thấp hơn

Giá cuộn trơn giao ngay tại Châu Á tiếp tục rớt từ ngày 15-21/9, vì niềm tin thị trường suy yếu khi nhìn thấy các nhà cung cấp Trung Quốc hạ chào giá một lần nữa sau khi nghỉ Tết Trung thu.

Hôm 21/9, Platts định giá thép dây dạng lưới 6.5mm là 341-343 USD/tấn FOB, giảm 4 USD/tấn so với 1 tuần trước đó. Hai nhà máy lớn ở miền bắc Trung Quốc đã hạ chào giá xuống 350 USD/tấn FOB, giảm 10 USD/tấn so với tuần trước. Chào giá phổ biến từ các nhà máy khoảng 345-350 USD/tấn FOB.

Thị trường đã trở nên rất im ắng trong ngày thứ Tư do sự bất ổn cản trở khách hàng đặt hàng.

Trong khi đó, chào giá tới Việt Nam là 353-355 USD/tấn CFR TP.HCM hôm thứ Tư, tương đương 345-347 USD/tấn FOB- phí vận chuyển 8 USD/tấn, mặc dù khách hàng tại Việt Nam cũng im ắng trong tuần này.

Một số người đưa ra giá hỏi mua ở Việt Nam là 348 USD/tấn CFR hôm thứ Hai được cho là quá thấp để chấp nhận.

Một thương nhân khác đã chào giá 351 USD/tấn CFR (343 USD/tấn FOB) và nói rằng mức giá này là quá tốt nhưng ông hoài nghi có thể chốt được bất kỳ giao dịch nào ở mức giá này do hoạt động thu mua thưa thớt. Không có thêm chi tiết nào được tiết lộ cho giao dịch này.

Cũng trong ngày 214/9, Jiujiang Iron & Steel,  một công ty xuất khẩu ở tỉnh Hà Bắc, đã giảm giá niêm yết trong nước hàng tuần cho thép dây xuống 15 NDT/tấn còn 2.300 NDT/tấn (345 USD/tấn) xuất xưởng và gồm VAT.

Tại thị trường giao ngay Thượng Hải cùng ngày, cuộn trơn Q195 6.5mm được định giá 2.430-2.440 NDT/tấn (364-366 USD/tấn) xuất xưởng và gồm VAT, giảm 50 NDT/tấn (7,5 USD/tấn) so với tuần trước đó.

Sức mua và niềm tin suy yếu kéo HRC Châu Á rớt giá

Giao dịch thưa thớt cùng với tâm lý bi quan về giá xuất khẩu HRC Trung Quốc trong nhiều tuần sắp tới đã khiến người bán phải hạ giá bán hôm thứ Tư, mặc dù các nhà máy Trung Quốc đã chính thức duy trì chào giá không đổi. Platts định giá SS400 HRC 3.0mm ở mức 367-373 USD/tấn FOB Trung Quốc, giảm 4 USD/tấn so với ngày trước đó.

Ba nhà máy Trung Quốc giữ chào giá ở mức 375 USD/tấn FOB Trung Quốc cho SS400 HRC mặc dù họ cân nhắc bán với giá thấp hơn 5 USD/tấn. “Anh không thể bán SS400 HRC  ở mức giá trên 375 USD/tấn CFR Việt Nam với phí vận chuyển 8 USD/tấn trong tình hình hiện nay được”, một thương nhân lớn ở Việt Nam cho biết, và nói thêm là hầu hết người bán đều muốn nhận được đơn đặt hàng ở mức giá đó.

Một nhà máy ở miền đông Trung Quốc muốn bán khối lượng nhỏ thép cuộn loại này với giá 380 USD/tấn CFR Việt Nam. Một nhà máy khác cũng ở miền đông đã bán khoảng 10.000-20.000 tấn HRC để làm ống thép với giá 381-382 USD/tấn CFR Việt Nam giao tháng 11 trong suốt hai ngày qua.

“Chúng tôi phải bán ở mức giá thấp như vậy do thị trường trì trệ”, một nhà máy giải thích, và nói rằng hiện nay không có chênh lệch giá giữa thép cuộn SS400 HRC với SAE. Nhà máy này đã bán hết tất cả các lô hàng xuất khẩu phân phối vào tháng 9.

Đối với thép cuộn SAE, hai giao dịch với tổng khối lượng 30.000 tấn được nghe nói chốt với giá lần lượt 80 USD/tấn và 385 USD/tấn CFR Việt Nam hôm thứ Ba. Nhưng cả hai đều giao tháng 12, nằm ngoài thời gian định giá 4-8 tuần của Platts.

Chào giá Trung Quốc cho thép cuộn cùng loại là 385 USD/tấnCFR Việt Nam giao tháng 11. Xinyu Iron & Steel chào giá 377 USD/tấnFOB Trung Quốc và sẵn sàng thương lượng giá.

 Giá xuất khẩu thép tấm Trung Quốc vẫn đang trên đà lao dốc

Giá thép tấm dày trong nước suy yếu đang khiến giá xuất khẩu của Trung Quốc giảm theo trong tháng này. Vào thứ Tư, giao dịch thép tấm vẫn còn thưa thớt và dẫn đến một số nhà xuất khẩu được khảo sát bởi Platts tin rằng giá xuất khẩu vẫn có khả năng sẽ rớt thêm nữa.

Chào giá cho thép tấm SS400 12-30mm từ các nhà máy Trung Quốc vẫn phổ biến trong khoaỏng 350-355 USD/tấn FOB giao vào cuối tháng 11 hay đầu tháng 13. Mức giá này đã giảm hơn 10 USD/tấn so với chào giá vào cuối tháng 8. Thậm chí như vậy thì chào giá này vẫn không thể thu hút được hầu hết người mua ở nước ngoài.

Thực tế, một nhà xuất khẩu ở Thượng Hải đã chào bán thép tấm SS400 với giá 340 USD/tấn FOB giao cuối tháng 11 và đầu tháng 12. Nhưng ông không chắc liệu khách hàng có đặt mua ở mức giá này hay không.

Trong khi đó tại thị trường Thượng Hải, thép tấm SS400 12-30mm được giao dịch phổ biến ở mức giá 2.500-2.520 NDT/tấn (375-378 USD/tấn) hôm thứ Tư, giảm 85 NDT/tấn so với cuối tháng 8. Một thương nhân cho biết sức mua trên thị trường thép tấm giao ngay đã chậm lại do giá giảm.