Thị trường than đá Châu Á tăng trưởng tuần qua nhờ sức mua cải thiện
Giá xuất khẩu than chất lượng cao Úc tăng 25 cents/tấn so với tuần trước đó lên 184.75 USD/tấn FOB Úc ngày thứ sáu còn giá CFR Trung Quốc tăng 75 cents/tấn lên 197.75 USD/tấn CFR Trung Quốc.
Tại Trung Quốc, các nhà máy nghe có nhu cầu các lô hàng chất lượng cao với thời gian tàu đến cảng là tháng 6 nhưng không vội mua.
Một nguồn tin cho biết các nhà máy thoải mái với việc thu mua khi giá tầm 185-190 USD/tấn CFR Trung Quốc cho loại chất lượng cao, dựa vào giá tăng và lợi nhuận thép cao gần đây.
Với giá trên mức 190 USD/tấn CFR Trung Quốc, các nhà máy bắt đầu trì hoãn. Tuy nhiên, giá nội địa và nhập khẩu vẫn chênh lệch, với tồn kho tại cảng chốt mức 209 USD/tấn cho loại chất lượng cao.
Với giá tăng trong nước, cả người mua và bán đều chờ đợi.
Giá trong nước tăng liên tục sau 4-5 đợt tăng giá được nghe. Kể từ đầu tháng 5, có tổng cộng 3 lần tăng giá, mỗi lần tăng 50 NDT/tấn (7.83 USD/tấn), với tổng cộng mức tăng lên 150 NDT/tấn đã được chấp nhận.
Dù giá than cốc trong nước tốt hơn, các nhà máy không thể tăng sản xuất vì các chính sách môi trường.
Một nguồn tin cho biết, hợp đồng than đá tháng 6-2018 tại sàn SHFE chốt cuối tuần này. Trong khi đó, hợp đồng mở trên sàn SGX từ ngày 1-17/5 đạt mức kỷ lục 1.82 triệu tấn.
Giá phôi thanh CIS ổn định trong bối cảnh xu hướng thị trường không rõ ràng
Thị trường phôi thanh Biển Đen không rõ ràng trong tuần giao dịch vừa qua, nguồn tin thị trường cho biết hôm thứ Sáu.
Nhiều người mua đã chuyển sang trạng thái chờ đợi, cho thấy giá thầu thấp hơn, trong khi giá cung cấp từ các nhà máy vẫn ở mức cao, các nguồn tin cho biết.
Một nhà máy ở Ukraine chào giá 525 USD/tấn FOB biển Azov cho lô hàng tháng sáu, yêu cầu thanh toán trước một phần. Một thương nhân cho rằng mức 520 USD/ tấn FOB là mức cao nhất khả thi giao vào tháng Sáu. "Đối với tháng 7, tôi không nghĩ rằng ngay cả 515 USD/tấn FOB được chấp nhận”.
Một số đơn hàng bán cho Ai Cập đã kết thúc vào nửa đầu tháng 5 với giá 535-540 USD/tấn CIF. Hiện tại, Iran vẫn có giá rẻ hơn," một thương nhân Ai Cập cho biết, tầm 528 USD/ tấn CIF. Ông thừa nhận rằng xuất khẩu phôi của Iran sẽ được kiềm chế trong tương lai gần. Do đó, các nhà cung cấp CIS tăng giá mục tiêu của họ.
Bên cạnh Iran, một số chào hàng từ Nam Âu có mức giá 440 Euro/tấn (518 USD/tấn FOB Ý) cũng cạnh tranh so với CIS.
Thị trường Thổ Nhĩ Kỳ vẫn còn rất khó khăn cho các nhà cung cấp CIS do sự rớt giá của đồng lira so với USD, nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm thép dài cả trong nước và xuất khẩu đều giảm và giá phế liệu suy yếu. Đây là những lý do khiến giá nhập khẩu phôi thép CIS không chốt được tới thị trường này.
Theo một số nguồn tin, thương nhân hoặc nhà máy sẽ phải cung cấp tối đa 520-525 USD/tấn CIF Thổ Nhĩ Kỳ (500-505 USD/ tấn FOB) cho các nhà sản xuất thép thanh thương phẩm. Đối với các nhà máy thép cây,giá còn phải thấp hơn khi mà giá thép cây trong nước chỉ 525-530 USD /tấn, tùy thuộc vào khu vực, các nguồn tin cho biết.
Giá phôi thanh xuất khẩu Trung Quốc giảm
Giá phôi thanh xuất khẩu Trung Quốc giảm trong tuần qua do người bán giảm giá để thu hút người mua.
Các chào giá tới Manila tuần trước đã giảm xuống còn 550-555 USD/tấn CFR đối với phôi Q275 120/130 mm cho lô hàng giao tháng 6/tháng 7, giảm 5-12 USD/tấn so với tuần trước đó. Giá phôi cạnh tranh nhất chủ yếu đến từ Nga, các thương nhân cho biết.
Giá cạnh tranh nhất đối với phôi thép Q275 130 mm của Nga đã được nghe ở mức 550 - 553 USD/tấn CFR Manila kể từ giữa tuần trước, giảm 5 USD/tấn so với tuần trước đó.
Giá chào thấp nhất đối với phôi thép Q275 150 mm của Trung Quốc đã được nghe vào khoảng 550 USD/tấn tấn CFR Manila vào thứ Sáu cho lô hàng giao tháng 7, giảm 10 USD/tấn so với một tuần trước đó.
Trong khi đó, bên mua cũng hạ giá mua vào. Hai nhà thầu địa phương đã nhận được hai giá chào mua ở mức 545 USD/tấn CFR Manila cho phôi thép Q235 120 mm và ở mức 548 USD/tấn CFR cho phôi thép Q275 120 mm, nói thêm rằng bà đã nhận được nhiều sự quan tâm mua nhưng với giá thấp. Cả hai hồ sơ dự thầu đều giao tháng 6, giảm khoảng 4 USD tấn so với tuần trước đó.
Mức giá có thể giao dịch được nhìn thấy vào khoảng 550- 555 USD/tấn CFR Manila cho phôi Q275, giảm khoảng 5 USD / tấn so với tuần trước đó, một thương nhân Trung Quốc cho biết. Và một thương nhân khác ở Thượng Hải cho rằng giá có thể giao dịch là khoảng 550 USD / tấn CFR.
Trong khi đó, các nhà máy của Việt Nam tăng giá chào thêm 5 USD/tấn lên 550-560 USD/ tấn FOB vào tuần trước, khi các lô hàng tháng 66 của họ gần như đã được đặt đầy đủ, một nguồn tin từ nhà máy của Việt Nam cho biết.
Bản tin quặng tuần: giá quặng IODEX 62% Fe giảm so với tuần trước
Nhu cầu tiêu thụ yếu cho quặng cám trong khi có sự dịch chuyển xu hướng nhu cầu dẫn tới giá quặng nhập khẩu giảm tuần qua.
Giá quặng IODEX 62% Fe giảm 0.55 USD/tấn so với thứ năm và 1.10 USD/tấn so với tuần trước xuống 66.70 USD/tấn CFR Trung Quốc trong ngày thứ sáu.
Chi phí cao hơn cho quặng có hàm lượng alumina thấp đã khiến các loại khác thu hút hơn.
Quặng Blend Fines Braxin(BRBF) có giá rất cao do hàm lượng alumina thấp. Ngược lại, loại có hàm lựng alumina cao như Jimblebar được bán ở mức chiết khấu cao. Sử dụng lượng nhỏ sẽ giúp tiết kiệm chi phí sản xuất mà không ảnh hưởng đến năng suất.
Nhu cầu tiêu thụ không còn giới hạn ở quặng Úc, không chỉ dựa vào nhu cầu quặng có hàm lượng alumina thấp mà còn do quặng Pilbara Blend có giá không thu hút. Các nhà mays nhỏ hơn với tỷ lệ pha trộn linh hoạt hơn thường nhắm vào hàng tồn giá rẻ tại cảng để giảm chi phí.
Sự thiếu tin tưởng vào giá quặng sắt và thép trên thị trường mở rộng dự báo giá quặng vẫn sẽ ổn định.
Các nguồn tn cho biết nếu không có hoạt động xây dựng chính nào được thông báo, hợp đồng dài hạn hiện tại với các nhà khai thác khoảng sáng đủ để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của các nhà máy thép.
Sự thay đổi gần đây của giá quặng nhập khẩu cũng ảnh hưởng tới nhu cầu tiêu thụ.
Hợp đồng dài hạn cho quặng Úc không thu hút so với thị trường giao ngay hiện tại do chiết khấu. giao dịch giao ngay cho quặng Úc tăng về khối lượng gần đây và xu hướng này có theerr còn tiếp tục.
Giá quặng có hàm lượng alumina thấp của Braxin dự báo cũng tăng nên các nhà máy chưa muốn cam kết hợp đồng dài hạn với các thương nhân do họ có thể bán giá cao hơn trên thị trường giao ngay.
Tiêu thụ suy yếu từ nhà máy làm giảm giá quặng cục dù việc cắt giảm nung kết quặng ở Đường Sơn. Chênh lệch giá ổn định ở mức 0.184 USD/tấn trong ngày thứ sáu so với thứ năm nhưng giảm 0.006 USD/tấn so với tuần trước đó.
Sự suy giảm chất lượng của quặng cục Pilbara Blend trên thị trường cộng giá năng lượng tăng khiến nó ít hiệu quả hơn so với quặng cục Newman.
Bản tin phế tuần: Giá phế Thổ Nhĩ Kỳ suy yếu, Châu Á hầu như ổn định
Trong khi thị trường phế liệu nhập khẩu Thổ Nhĩ Kỳ kết thúc tuần với diễn biến giá giảm mạnh, giá cả trên thị trường châu Á vẫn ổn định trong tuần.
Thị trường Thổ Nhĩ Kỳ suy yếu trong suốt tuần do nhu cầu trong nước và xuất khẩu đối với các sản phẩm thép giảm hơn nữa trong bối cảnh nền kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ không chắc chắn.
Giá nhập khẩu phế HMS I/II Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 345 USD/tấn CFR hôm thứ Sáu tuần qua, giảm 12 USD tấn Tso với tuần trước đó.
Trong khi một giao dịch cho một nhà sản xuất thép có trụ sở tại Marmara vào đầu tuần chốt mức 350-355 USD/tấn, hai giao dịch được thực hiện vào thứ Năm đã thiết lập mức giá nhập khẩu thấp hơn.
Một nhà cung cấp phế ở Benelux đã bán 25.000 tấn HMS 1/2 (75:25) và 10.000 tấn phế bonus cho nhà sản xuất thép Iskenderun vào thứ Năm với giá trung bình 341 USD/tấn, tương đơng 343.25 USD/tấn CFR. Thỏa thuận này đã được người mua và người bán xác nhận.
Hợp đồng thứ hai của Châu Âu được bán cho một nhà máy có trụ sở tại Marmara với giá 345 USD/tấn CFR cho HMS (1/2) 80/20 và 355 USD/tấn đối với phế bonus giao ngay, theo một số nguồn tin trên thị trường.
Không chắc chắn về việc bán các sản phẩm thép thành phẩm ở Thổ Nhĩ Kỳ trong tương lai, kết hợp với rủi ro giảm giá và rủi ro thuế quan của Mỹ đã khiến các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ ít mua phế liệu, chỉ mua đủ dùng.
Trong khi đó, thị trường nhập khẩu phế Đông Á hầu như ổn định trong bối cảnh giá chào bán và mức giá thầu không đổi, các nguồn tin từ các nhà máy Hàn Quốc cho biết.
Giá nhập khẩu phế HMS 1/2 80:20 vào Đông Á ở mức 360- 370 USD/tấn CFR, không thay đổi so với tuần trước.
Một thỏa thuận đã được báo cáo chốt tuần trước từ một nhà máy lớn của Hàn Quốc, khoảng 48.000 tấn vào khoảng 363 USD/ tấn CFR Hàn Quốc cho phế HMS Mỹ khối lượng lớn, nhà máy cho biết.
Theo nhà máy Hàn Quốc, một nhà máy lớn ở Việt Nam cũng đã đặt tổng cộng 32.000 tấn phế Mỹ với giá 373 USD/tấn CFR Việt Nam vào thứ năm, nhà máy cho biết. Giá cước vận chuyển đến Việt Nam cao hơn khoảng 5-10 USD/tấn so với Hàn Quốc.
Tại Việt Nam, các nhà cung cấp Hồng Kông đang cố gắng đẩy giá cao hơn trong tuần này, nhờ vào các chỉ số thị trường mạnh ở Trung Quốc.
Một số nhà cung cấp Hồng Kông tăng giá chào bán với phế HMS 1/2 50:50 khối lượng lớn ở mức 355 USD/tấn CFR Việt Nam, tăng từ mức 348- 353 USD/tấn tuần trước. Tuy nhiên, giá chốt chỉ ở mức 344 USD/ tấn CFR Việt Nam hôm thứ ba, với ba lô bao gồm 3.000 tấn, 3.500 tấn và 3.500 tấn - tăng 2 USD/tấn so với giá giao dịch của tuần trước đó.
"Tình hình ở Việt Nam khó khăn, vì mùa mưa đang đến gần và gây áp lực lên các hoạt động xây dựng. Chúng ta phải thận trọng về bất kỳ sự gia tăng giá phế liệu nào, điều này sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận".
Đồng thời, giá xuất khẩu thép phế của Nhật Bản tăng mạnh trong tuần với giá chốt cao hơn, nguồn tin giao dịch tại Tokyo cho biết.
Phế H2 của Nhật Bản để xuất khẩu ở mức 34.500 Yên/tấn (313 USD / tấn) FOB Vịnh Tokyo thứ Tư, tăng 500 Yên/tấn so với tuần trước.
Nhà máy mini hàng đầu của Nhật Bản, Tokyo Steel đã nâng giá mua phế liệu lên gấp 3 lần kể từ ngày 12/5. Giá mua H2 tại Utsunomiya hiện nay là 35.500 Yên/tấn vào ngày 19/5. Và Shindachi và phế khác đã tăng thêm 500-1.000 Yên/tấn từ 16/5.
Trong khi đó, giá phế liệu nóng chảy khối lượng nhỏ ở Đông Á vẫn không thay đổi trong tuần trong bối cảnh giá ổn định hôm thứ Sáu, những người tham gia thị trường cho biết.
Giá phế HMS 1/2 (80:20) khối lượng nhỏ trên cơ sở CFR Đài Loan ở mức 340 USD/tấn vào thứ Sáu, không thay đổi so với tuần trước.
Kháng cự về giá cao hơn từ phía mua được hỗ trợ bởi các nhà máy của Đài Loan kỳ vọng nhu cầu phế liệu thấp hơn trong tương lai, do giới hạn điện vào mùa hè sắp tới, sẽ có hiệu lực trong khoảng hai tuần, như đã báo cáo trước đây.
Giá HRC Mỹ tiếp tục duy trì ổn định
Thị trường thép cuộn tiếp tục ổn định với giá HRC xấp xỉ 890 USD/tấn cho đơn hàng 10.000-15.000 tấn gần đây. Phần lớn giá chào bắt đầu ở mức 900 USD/tấn nhưng vài đơn hàng chốt mức thấp hơn là 880-885 USD/tấn.
Vài giá chào cao hơn tới 920 USD/tấn do vài nhà máy đẩy giá. Thị trường HRC vẫn rất thắt chặt và không có giá chào thấp 870 USD/tấn nào gần đây.
Một trung tâm dịch vụ thứ hai đang đàm phán hợp đồng với một nhà máy mini và được nói rằng nhà máy này vẫn rất bận còn các khách hàng khác đang tối đa khóa sản lượng thông qua hợp đồng. Phía nhà máy dường như nôn nóng đóng hợp đồng hơn dù giá trên thị trường giao ngay cao hơn giá hợp đồng 75 USD/tấn.
Một nhà máy khác cho biết các đơn hàng HRC ở mức 900-920 USD/tấn với lượng lớn bán mức 900 USD/tấn. Dao động giá CRC tầm 1.000-1.040 USD/tấn, với phần lớn đơn hàng chốt mức 1.020 USD/tấn.
Giá thép cây, phôi thanh Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục giảm
Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ giảm giá chào thép cây nội địa và xuất khẩu theo đồng dolla do giao dịch hạn chế trong nước dựa vào vấn đề tiền mặt thắt chặt hơn khi đồng Lira tiếp tục giảm và tiêu thụ tại thị trường xuất khẩu trì trệ.
Đồng Lira đã giảm 10% giá trị so với dolla kể từ cuộc bầu cử chóng vánh của Chính phủ thông báo ngày 17/4 và giao dịch mức 4.48-4.49 Lira/USD chiều thứ sáu, so với mức 4.02-4.03 Lira/USD ngày 17/4.
Vài nhà máy vẫn chưa nhận đơn hàng trong khi một số duy trì giá niêm yết theo đồng Lira dù giá theo đồng dolla giảm. Giá niêm yết nội địa ở mức 555-560 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá xuất khẩu ở mức thấp 550 USD/tấn FOB cho đơn hàng lớn. Tuy nhiên, giá người mua chỉ ở mức 540-545 USD/tấn FOB.
Các nhà máy đặt mục tiêu mua phế nhập khẩu ở mức 340-345 USD/tấn CFR dựa vào nhu cầu đòi giảm giá của người mua ngoài nước. Giá xuất khẩu giảm mạnh trong tháng 5 và sự sụt giảm tiêu thụ trong nước tăng áp lực cho giá chào bán. Tâm lý này có thể tiếp tục tới cuối bầu cử.
Các nhà máy nhìn chung vẫn giữ khoảng cách 200 USD/tấn với giá phế trong các đơn hàng xuất khẩu.
Trong khi đó, giá phôi thanh nội địa và xuất khẩu giảm xuống mức thấp 530 USD/tấn trong khi giá chào phôi thanh nhập khẩu từ CIS tới Thổ Nhĩ Kỳ ở cùng mức CFR, không cạnh tranh nhiều.
NSSMC Nhật Bản vẫn duy trì giá thép dầm hình H tháng 5
Nhà máy Nippon Steel & Sumitomo Metal Corp. Nhật cho hay sẽ giữ giá thép dầm hình H cho hợp đồng tháng 5 nhưng dự định tăng giá từ hợp đồng tháng 6.
NSSMC tăng giá tổng cộng thêm 8.000 Yên/tấn (72 USD/tấn) từ tháng 12-tháng 2 nhưng vẫn giữ giá ổn định kể từ hợp đồng tháng 3. Chi nhánh nhà máy Nippon Steel & Sumikin Shapes của NSSMC vẫn giữ giá cho tháng 5.
NSSMC không công bố giá niêm yết nhưng giá hiện tại cho thép dầm hình H cỡ lớn ở Tokyo là 84.000-85.000 Yên/tấn (757-766 USD/tấn), tăng 1.000 Yên/tấn so với tháng trước, và 6.000 Yên/tấn so với cuối tháng 12.
Phát ngôn viên nhà máy NSSMC cho bít tháng 4-tháng 6 thường có tiêu thụ chậm. Tuy nhiên, nhu cầu thép dầm hình H trong Qúy hiện tại cao hơn thông thường. Chúng tôi mong đợi giá tiếp tục tăng từ tháng 7 nên giữ công suất ở mức cao và sẽ duy trì một thời gian.
Phát ngôn viên nhà máy cũng nói thêm rằng chi phí đang tăng và công ty cần tăng giá sớm nhất có thể để bảo toàn lợi nhuận. Do đó, chúng tôi hướng tới việc tăng giá có thể cho hợp đồng tháng 6 nhưng tùy vào điều kiện thị trường.
Tồn kho thép dầm thuộc tập đoàn các nhà phân phối nội địa Tokiwakai của NSSMC cuối tháng 4 tổng cộng 195.500 tấn, giảm 2.3% so với cuối tháng 3 và 0.6% so với năm ngoái.
Giá giao dịch thép dây Mỹ tăng sau khi các nhà máy tăng giá
Giá giao dịch thép dây Mỹ tăng sau khi nhiều nhà máy thông báo tăng giá trong tháng 5.
Trong tuần đầu tháng, nhà máy Keystone Steel and Wire thông báo tăng giá niêm yết thêm 45 USD/tấn. Tuần trước, Nucor thông báo tăng giá thêm 25 USD/tấn, sau lần tăng đầu tiên của nhà máy Optimus Steel với mức tăng 25 USD/tấn.
Giá tăng được thị trường chấp nhận dù giá phế giảm nhẹ.
Dù giá phế giảm từ đầu tháng song các nhà máy vẫn bận rộn dựa vào tiêu thụ mạnh và sự thiếu hụt hàng nhập khẩu do chính sách thuế 25% Mỹ.
Thời gian sản xuất tới tháng 8 ở vài nhà máy và hầu hết đơn hàng tháng 6 đã đủ.
Với giá đạt mức 40 USD/cwt (800 USD/tấn) cho thép dây lưới, vài người có cảm giác giá đã đạt đỉnh.
Một khách hàng đồng tình thị trường đã gần đỉnh nhưng chủ yếu ở nhu cầu. Nếu thiếu sức mua thì giá mới khó được chấp nhận.
Nhiều nhà máy muốn giá tới 860-880 USD/tấn trước khi suy yếu nhưng khi giá nội địa lên mức này thì hàng nhập khẩu sẽ cạnh tranh.
Giá tuần cho thép dây dạng lưới tăng lên 780-800 USD/tấn từ mức 735-780 USD/tấn tuần trước.
Giá thép dài EU giảm do sức mua hạn chế
Giá thép dài EU giảm do sức mua hạn chế buộc các nhà máy phải giảm giá để kích cầu.
Hàng loạt ngày lễ diễn ra tháng này đang làm sức mua suy yếu với người mua chỉ đặt đủ dùng.
Hơn thế nữa, bất ổn về chính sách thương mại EU về hạn ngạch nhập khẩu tiếp tục khiến thị trường u ám.
EC đã công bố điều tra tự vệ ngày 26/3 cho thép nhập khẩu để tìm biện pháp ngăn chặn thép tràn vào sau khi Mỹ chặn cửa hàng nhập khẩu theo chính sách 232.
Các nhà máy thép cây và thép hình do dự giảm mạnh giá do tâm lý thị trường vẫn lạc quan cho tháng 6.
Nếu các nhà máy muốn có đơn hàng họ phải giảm giá 5 Euro/tấn nhưng không hơn. Thị trường chậm tăng trưởng. Ở Đức, các khách hàng thu mua chậm mà chỉ mua thứ cần. Hai tháng tới sẽ thấy sức mua cực kỳ bận rộng, sau đó là tới mùa hè suy yếu.
Thị trường thép cây Đức và Benelux báo giá 290 Euro/tấn giá xưởng, tầm 555 Euro/tấn giá giao hangf cho thép cây 12mm, giảm 5 Euro/tấn sau 2 tháng ổn định. Giá ở Pháp là 280 Euro/tấn xuất xưởng, tầm 545 Euro/tấn giá giao hàng.
Giá thép hình giảm 5 Euro/tấn so với tuần trước xuống 590-595 Euro/tấn cho loại 1, với mức 600 Euro/tấn không còn được chấp nhận.
Sự sụt giảm mạnh được chứng kiến trên thị trường thép thanh thương phẩm, giảm 10 Euro/tấn so với tuần trước xuống 140-145 Euro/tấn xuất xưởng, tầm 570-575 Euro/tấn giá thực tế. Giá giảm cũng do nguồn cung đầy đủ.
Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc giảm trong bối cảnh sức mua suy yếu
Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc theo giá trong nước. Người mua theo đó cũng hạ giá chào mua do tâm lý thị trường suy yếu.
Nhiều thương nhân nghĩ rằng giá mua dưới mức 560 USD/tấn CFR Singapore trọng lượng lý thuyết cho thép cây 10-40mm, giảm 1 USD/tấn hoặc hơn so với ngày thứ năm. Một thương nhân Thượng Hải cho biết khó đạt được doanh số 555 USD/tấn CFR Singapore, tương đương 552-557 USD/tấn FOB với phí vận chuyển 20 USD/tấn và 3% chênh lệch khối lượng.
Một nhà môi giới Singapore không mua ở mức 560 USD/tấn CFR do bi quan về triển vọng giá, nhưng đã nhận được chào giá 530 USD/tấn CFR cho Q4/2018 hồi tuần trước.
Hoạt động thị trường im ắng với tâm lý thị trường suy yếu gây ra bởi giá giao ngay và kỳ hạn cùng giảm. Tại thị trường Bắc Kinh, giá giao ngay thép cây HRB400 18-25mm giảm 20 NDT/tấn xuống 4.045 NDT/tấn (634 USD/tấn) xuất xưởng.
Vấn đề lúc này là tâm lý thị trường không đủ mạnh. Khi giá tăng thì người mua muốn chờ đợi còn khi giá giảm họ lại giảm giá chào mua, một thương nhân Singapore cho hay.
Hai thương nhân Trung Quốc cho biết sẽ chờ và quan sát thị trường tuần này. Giá kỳ hạn giảm 1 ngày không có nghĩa là sẽ giảm tiếp.
Trong ngày thứ sáu, hợp đồng thép cây kỳ hạn tháng 10 trên sàn SHFE chốt giảm 48 NDT/tấn (1.3%) xuống 3.631 NDT/tấn.
Thị trường xuất khẩu HRC Trung Quốc sôi nổi hơn
Giá xuất khẩu HRC Trung Quốc giảm do các nhà máy muốn kích cầu nên sẵn sàng giảm giá, song nhờ đó sức mua có phần sôi nổi hơn về cuối tuần.
Chào giá thấp nhất cho loại HRC SS400 là 590 USD/tấn FOB với các nhà máy cho biết giá 585-590 USD/tấn FOB là giá được chấp nhận.
Nhiều giao dịch chốt tới Việt Nam trong ngày thứ năm và sáu cho loại SS400 ở mức 600-602 USD/tấn CFR Việt Nam cho cả thép cuộn và tấm. Theo nhiều thương nhân, họ nghi ngờ lô hàng này được đặt bởi các nhà tiêu thụ cuối hoặc các thương nhân do khách hàng của họ vẫn do dự.
Đối với HRC SAE1006, thị trường hầu như im ắng do người bán rút lại chào giá. Theo một thương nhân Việt Nam, người mua vẫn cần mua nguyên liệu nhưng sự bất ổn giá khiến họ chần chừ.
Thêm vào đó, Formosa Hà Tĩnh đã bắt đầu sản xuất lò cao số 2 vào hôm thứ sáu, trễ 3 ngày so với kế hoạch. Phía nhà máy cho hay sẽ thông báo giá vào tuần này.
Tại Thượng Hải, giá giao ngay HRC Q235 5.5mm giảm 10 NDT/tấn xuống 4.250-4.270 NDT/tấn (666-670 USD/tấn) xuất xưởng có thuế.
Tại sàn kỳ hạn, hợp đồng HRC giao tháng 10 chốt giảm 47 NDT/tấn xuống 3.800 NDT/tấn.