Giá phế tuần: Giá Thổ Nhĩ Kỳ tăng trong khi Nhật Bản giảm
Nhập khẩu phế HMS I / II (80:20) của Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng lên trong tuần trước do các nhà máy đã bỏ qua bất ổn kinh tế vĩ mô rộng lớn hơn - với đồng lira đạt một mức thấp mới so với đồng USD.
Platts định giá phế premium 80:20 nhập khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ tăng 4usd/tấn đến mức 221usd/tấn hôm thứ Sáu, như người bán ở tất cả các khu vực cung cấp lớn bán hàng ở mức cao hơn.
Các nguồn tin cho biết giá phôi thanh tăng đã giúp phế, cũng như chi phí than cốc trong sản xuất thép bán phẩm tăng vọt. Giá than cốc đã tăng gấp ba lần trong suốt năm nay, và hiện chiếm khoảng 60% chi phí nhà máy lò cao. Các nhà máy cũng đã được thanh toán tiền mặt do nhu cầu tiêu thụ mạnh mẽ từ một số lĩnh vực, như ô tô. Tuy nhiên, bất ổn về địa chính trị và sự thúc đẩy cải cách hiến pháp của tổng thống Erdogan đã tác động đến môi trường kinh doanh.
Trong khi đó, giá xuất khẩu phế Nhật Bản giảm trong tuần trong bối cảnh hoạt động đặt mua chậm chạp, các nguồn tin kinh doanh tại Seoul và Tokyo cho biết.
Nhà máy EAF Hàn Quốc Hyundai Steel đã nộp hồ sơ dự thầu đối với H2 Nhật Bản tại mức 18.500 Yên/tấn (177usd/tấn) FOB, giảm 500 Yên/tấn, từ mức đặt mua trước đó vào ngày 30/09, các nguồn kinh doanh tại Seoul và Tokyo cho biết.
Nhà máy mini này cũng nộp hồ sơ dự thầu cho phế Shindachi lớp ở mức 21.500 Yên/tấn FOB, 20.500 Yên/tấn FOB cho phế vụn, và 20.000 Yên/tấn FOB cho HS.
Một nhà máy EAF khác, Dongkuk Steel Mill, đặt mua H2 Nhật Bản tại 18.700Yên/tấn FOB đầu tuần trước và chốt mua 15.000 tấn, các nguồn tin kinh doanh tại Tokyo và Seoul cho biết.
Đấu giá hàng tháng của Kanto Tetsugen cho H2 xuất khẩu của Nhật Bản tổ chức hôm thứ Năm nhận được chào mua cao nhất là 19.400 Yên/ tấn FAS, giảm 660 Yên/tấn từ mức giá chào cao nhất hồi tháng trước, nhà tổ chức cho biết.
Đấu giá hàng tháng nhận được tổng cộng 19 thầu tìm kiếm 215.000 tấn phế, nhà tổ chức cho biết, với giá thầu trung bình là 18.569 Yên/tấn FAS.
Nhà máy mini hàng đầu Nhật Bản, Tokyo Steel Manufacturing tiếp tục duy trì giá mua kể từ khi hàng cập cảng ngày 06/09, với giá H2 tại Utsunomiya, phía bắc Tokyo, vẫn ở mức 20.000 Yên/tấn.
Platts định giá xuất khẩu phế H2 hàng tuần ở mức 18.700 Yên/tấn FOB vịnh Tokyo, thứ Tư, giảm 300Yên/tấn, từ định giá của tuần trước đó là 19.000 Yên/tấn FOB.
Trong khi đó, phế bulk HMS (HMS) thị trường Đông Á tiếp tục ổn định trong bối cảnh hoạt động yên tĩnh. Các nguồn tin kinh doanh trong khu vực cho biết đã không nghe nói về bất kỳ giá chào trong khu vực.
Tuần trước, một nhà máy Việt Nam nghe nói đã ký kết một lô hàng Mỹ tại mức 225usd/tấn CFR Việt Nam cho HMS, các nguồn kinh doanh Việt Nam và trong khu vực cho biết. Một thương nhân Đài Loan cho biết ông nghe nói về thỏa thuận này trong tuần trước.
Hôm thứ Tư, Platts duy trì phế bulk HSM I/II 80:20 Đông Á ở mứ 220-225usd/tấn CFR, với mức trung là 222,50/tấn ổn định trong tuần thứ ba liên tiếp.
Giá phôi thanh CIS tăng nhưng tăng hơn nữa thì không chắc
Giá phôi thanh Biển Đen tiếp tục tăng lên trong tuần trước, mặc dù giá tăng có thể không duy trì bền vững trong tương lai, các thương nhân cho biết hôm thứ Sáu.
Platts định giá ở mức 320usd/tấn FOB Biển Đen thứ Sáu, ổn định trong ngày nhưng tăng 7usd/tấn trong tuần.
Chào giá nghe nói ở mức 335-345usd/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ thứ Sáu, tương đương với khoảng 320-330usd/tấn FOB Biển Đen, các thương nhân cho biết. Phạm vi gia chào đã mở rộng từ 320-325usd/tấn FOB Biển Đen vào cuối tuần trước đó.
"Chào giá từ CIS khoảng 335-340usd/tấn CFR [Thổ Nhĩ Kỳ]. Chúng tôi đã không đặt mua nhưng nghe nói có một số giao dịch đã hoàn tất quanh mức này", một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ cho biết. Đầu tuần trước, một số đơn đặt hàng đã được thực hiện bởi các nhà máy CIS khoảng 320usd/tấn FOB Biển Đen, thương nhân cho biết.
Một nhà máy Ukraine mini cũng đã được nghe nói chào giá 319usd/tấn FOB Mariupol, một nguồn thương mại nói thêm. "Đối với tôi, mức giá này là quá cao", nguồn tin này nhận xét.
Giá phôi thanh CIS đã tăng trong bối cảnh giá phế cao hơn - và giá than cốc tăng vọt - nhưng các thương nhân đang nghi ngờ liệu sự gia tăng có thể được duy trìtrong tương lai do nhu cầu tiêu thụ tương đối suy yếu cho thép thành phẩm. "Các nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ đã đặt quá nhiều phế, khoảng 500.000 tấn chủ yếu là từ Mỹ," một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ cho biết.
"Vấn đề là nhu cầu tiêu thụ. Không có nhu cầu tiêu thụ như vậy đối với thép thành phẩm như là đối với vật liệu thô như là phế và phôi thanh. Thị trường trong nước cũng không tốt, tôi vẫn không chắc chắn tăng giá sẽ hiệu quả. [Nhưng] tôi nghĩ tuần tới sẽ rõ ràng hơn về xu hướng, "ông nói thêm.
Tuy nhiên, một thương nhân khác cho biết giá có thể tăng hơn nữa. "Tôi tin rằng giá sẽ tiếp tục tăng và tôi thấy gang thỏi tại 250usd/tấn FOB và phôi thanh tại 330usd/tấn FOB," thương nhân cho biết.
Thép tấm Nam Âu nhìn thấy chào giá mới, trong khi miền Bắc chờ đợi đẩy giá lên
Thị trường thép tấm Bắc Âu vẫn đang dự đoán sẽ tăng giá sau thông báo gần đây của thuế chống bán phá giá sơ bộ khoảng 70-73% áp đặt lên hàng nhập khẩu của Trung Quốc, các nguồn tin thị trường cho biết hôm thứ Sáu.
Trong khi các nhà máy phía Bắc vẫn đang định giá mức mà họ sẽ kéo giá tăng lên, một nhà cán lại Italy đã quyết định tăng giá chào.
Giá cho S275 đang báo giá khoảng 470euro/tấn cơ sở xuất xưởng – nhà cán lại này tăng giá do thông báo thuế chống bán phá giá và chi phí nguyên vật liệu thô tăng cao.
"Ngay sau khi EC đưa các biện pháp chống bán phá giá, thị trường đã phản ứng với giá tăng 30euro/tấn, từ mức thấp nhất. Bây giờ sau 4-5 ngày chúng tôi đang tiếp tục đẩy giá đi lên", một nguồn tin thân cận với nhà cán lại cho biết.
Mọi người cũng cho biết một số giao dịch lớn đã chốt ở mức 430-440euro/tấn xuất xưởng ở miền nam châu Âu.
Thị trường phía Bắc vẫn trong tâm trạng chờ đợi, với các nhà máy lớn không muốn quá vội vàng trong việc đẩy giá lên cao.Giá giao dịch, tuy nhiên, nghe nói khoảng 500euro/tấn. Vật liệu từ khu vực trung tâm phía Đông châu Âu vẫn vào khoảng 450-460euro/tấn đã giao miền bắc Italy, nguồn tin cho biết.
Platts định giá hàng ngày đối với giao dịch nghe nói ở mức giá cao nhất trong phạm vi này. Đánh giá nhập khẩu thay đổi ở mức 420-430euro/tấn CIF Antwerp, tăng 10euro/tấn. Thị trường nhập khẩu vẫn yên ắng với các hoạt động hạn chế, với chào giá mới nhất nghe nói từ Ukraine ở mức 400euro/tấn CIF Nam Âu và vật liệu của Ấn Độ chào giá tại mức 470euro/tấn CIF Nam Âu.
Thép cuộn Nam Âu tiếp tục tăng, nhưng rất ít giao dịch được chốt mua
Giá thép cuộn Nam Âu tiếp tục tăng lên, nhưng hoạt động khá trầm lắng với hầu hết người mua đã ký kết hộp đồng thu mua cho tới cuối năm, các nguồn tin cho biết hôm thứ Sáu.
"Hầu hết những người mua đã chốt đơn hàng nhưng họ cũng không mua vì họ có vấn đề là phải đạt được mức giá tăng người mua của họ," một nguồn tin từ một nhà tích trữ Italy nói.
Giá HRC Italy được biết vào khoảng 410-420euro/tấn cơ sở xuất xưởng từ nhà sản xuất trong nước chính - ArcelorMittal đang chào bán ở mức 450-460euro/tấn cơ sở xuất xưởng và sẽ không dưới 440euro/tấn xuất xưởng, nhưng nó không phải là một đối thủ lớn ở Italy.
Tại Iberia, ArcelorMittal là một trong những người bán lớn nhất và giá chào bán của nó là khoảng 460euro/tấn đã giao. "Ở Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha không có HRC dưới 430-450euro/tấn đã giao, nhưng ở đây cũng có các giao dịch rất thấp," ông nói.
Nhập khẩu tăng, nhưng người mua không quá quan tâm do thuế cũng như giá chào bán cao hơn.
Trong thị trường nhập khẩu, chào giá HRC của Ấn Độ được báo cáo là có giá rẻ nhất, với báo giá khoảng 435euro/tấn CIF cảng Italy với các lô hàng giao tháng 12. Các nhà máy của Iran đang chào giá 470euro/tấn CIF cảng Italy.
CRC được báo cáo tại mức 530-540euro/tấn cơ sở xuất xưởng từ nhà sản xuất trong nước. ILVA đang chính thức yêu cầu mức giá 550euro/tấn cơ sở xuất xưởng nhưng trong thực tế ILVA đang không báo giá vì nó có thời gian giao hàng kéo dài. Các nhà máy Ấn Độ là cạnh tranh nhất tại mức 515euro/tấn CIF cảng Italy cho hàng giao tháng 12.
Giá HDG đã được báo cáo khoảng 530 euro/tấn với Arcelor khoảng 550euro/tấn cơ sở xuất xưởng. Giá nhập khẩu HDG cho Z100 dày 1mm khoảng 510-520euro/tấn CIF cảng Italy.
Định giá HRC EU
Platts duy trì định giá HRC Bắc Âu ở mức 450-460euro/tấn xuất xưởng Ruhr thứ Sáu.
Thị trường vẫn trầm lắng, với các nhà máy vui vẻ giữ giá không đổi và người tiêu dùng sẵn sàng để chờ giá ổn định. Chào giá từ các nhà máy châu Âu đã khẳng định không thay đổi ở mức 480euro/tấn, mặc dù vật liệu này được cho là có giá 450-460euro/tấn.
Với các nhà sản xuất và thương nhân Trung Quốc đã quay lại thị trường sau kỳ nghỉ lễ kéo dài một tuần, các nguồn tin cho biết giá đã tăng nhẹ lên. Chào giá nhập khẩu đã được cho biết ở mức trên 450euro đến châu Âu, với khối lượng nhỏ hàng có sẵng từ Ấn Độ và Iran.
Platts định giá nhập khẩu châu Âu tại mức 420-430euro/tấn CIF Antwerp.
Chào giá nhập khẩu HDG Thổ Nhĩ Kỳ tăng vọt
Mặc dù nhu cầu tiêu thụ tại thị trường thép cuộn mạThổ Nhĩ Kỳ vẫn trì trệ trong tuần trước, trong bối cảnh tỷ giá hối đoái biến động mạnh, các chào giá nhập khẩu mới nhất đến Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng mạnh và vượt quá giá địa phương, nguồn tin công nghiệp cho biết hôm thứ Sáu.
"Chào giá bán nhập khẩu mới nhất mà tôi nhận được từ một nhà máy lớn của Italy thì cao hơn 40usd/tấn so với giá chào bán trước đó của họ. Họ bắt đầu chào giá thép cuộn mạ kẽm dày 2-4mm ở mức 610usd/tấn CFR," một người quản lý trung tâm dịch vụ tại khu vực Marmara nói với Platts . "Họ cho biết, họ đã nhận được lượng đơn đặt hàng đáng kể từ Mỹ, và không thể bán dưới mức này đến Thổ Nhĩ Kỳ."
"Tôi cũng đã cố gắng để nhận được một chào giá từ một nhà máy Rumani, nhưng họ hiện không cung cấp giá chào đến Thổ Nhĩ Kỳ, do mức giá trong nước thấp hơn. Họ hoàn toàn đúng, tôi có thể mua thép cuộn mạ kẽm cùng độ dày (2-4mm) khoảng 550usd/tấn xuất xưởng từ nhà máy địa phương," ông nói.
Chào giá của các nhà máy trong nước cho thị trường nội địa cho HDG dày 0.5mm vẫn trong khoảng 630-650usd/tấn xuất xưởng thứ Sáu, trong khi giá HDG dày 1mm ở mức 570-590usd/tấn. Chào giá trong nước của các nhà máy cho PPGI 9002 dày 0.5mm cũng tương đối ổn định ở mức 720-740usd/tấn xuất xưởng thứ Sáu. Nhu cầu xuất khẩu tiếp tục duy trì tốt hơn so với nhu cầu trong nước, nguồn tin công nghiệp ghi nhận.
Trong khi đó, các nhà sản xuất thép cuộn cán nóng của Thổ Nhĩ Kỳ đã duy trì giá niêm yết trong suốt tuần trước, do giá than luyện cốc mạnh lên, giá phế nhập khẩu cao hơn biến động tỷ giá hối đoái mạnh mẽ hơn.
Giá niêm yết của các nhà sản xuất nội địa tương đối ổn định ở mức 440-460usd/tấn thứ Sáu, trong khi họ đẩy giá chào xuất khẩu lên đến phạm vi khoảng 425-435usd/tấn xuất xưởng, phù hợp với chào giá cải thiện mạnh mẽ của CIS và Trung Quốc.
Định giá thép cây FOB Thổ Nhĩ Kỳ
Platts định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 372,50usd/tấn FOB thứ Sáu, tăng 6usd/tấn trong ngày.
Định giá tăng lên do giá giao dịch và chào giá cao hơn hôm thứ Sáu. Giao dịch nghe nói đến Ai Cập và Yemen tại mức 380-385usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ, cho 3.000-7.000 tấn, từ một nguồn tin bên bán.
Giá trong nước Thổ Nhĩ Kỳ cũng đã đạt được lực kéo hơn nữa, tăng từ mức 365-370usd/tấn xuất xưởng lên mức 380-385usd/tấn xuất xưởng, một nguồn tin tại một nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ nói - các nhà máy đã tăng giá cho sự mất giá của đồng lira so với đôla Mỹ.
Các nhà máy đã nghe nói đang chào giá đến Mỹ khoảng 385-390usd/tấn CFR Houston trọng lượng lý thuyết, tương đương khoảng 374-376usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ trọng lượng thực tế. Đến Houston, chào bán là 388usd/tấn CFR, và 398usd/tấn CFR đến những nơi khác, một nguồn tin nhà máy nói thêm. Trong khi đó, với những ngày không làm việc tại UAE, không có thông tin hợp đồng mới đã được ký kết từ thị trường này.
Chi phí tăng kéo giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ đi lên
Sự sụt giảm giá liên tục của đồng lira Thổ Nhĩ Kỳ và chi phí đầu vào tăng cao, trong bối cảnh giá phế và phôi thanh trong nước và nhập khẩu cải thiện mạnh mẽ, đã kéo giá thép dài trong nước của Thổ Nhĩ Kỳ tăng lên đáng kể suốt tuần qua.
Icdas và Kardemir tái mở bán thép cây cho thị trường nội địa trong tuần trước với giá cao hơn, trong khi các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ chủ yếu khác cũng tăng giá niêm yết đáng kể. Trong khi đó, Kardemir đã chốt bán thép cây vào tối thứ Sáu tuần trước và dự kiến sẽ mở bán với giá cao hơn, có thể trong tuần này.
Icdas ở khu vực Marmara tăng giá bán thép cây đường kính 12-32mm 20 TRY (6,5usd)/tấn lên mức 1.196 TRY (388usd)/tấn xuất xưởng cho Istanbul, trong khi Kardemir thiết lập giá bán mới thép thanh cây ở mức 1.172 TRY (380usd)/tấn xuất xưởng, tăng 37 TRY (12usd)/tấn so với giá niêm yết trước đó, cả hai giá không bao gồm 18% VAT.
Các nhà tích trữ cũng tiếp tục tăng giá chào cao hơn nữa cho thị trường trong nước tuần qua cùng với việc nhà máy tăng giá và sự mất giá mạnh của đồng lira. Giá xuất kho cho thép cây đường kính 8-12mm, trong khu vực Marmara tăng 20 TRY (6,5usd)/tấn hôm thứ Sáu lên mức khoảng 1.410-1.430TRY/tấn (bao gồm 18% VAT), trong khi giá nhà tích trữ trong khu vực Karabuk, miền bắc Thổ Nhĩ Kỳ, đã tăng một khoản tương ứng. Giá thép cây của nhà tích trữ trong khu vực Iskenderun, miền nam Thổ Nhĩ Kỳ, cũng đạt mức 1.380-1.400 TRY/tấn. Như vậy, mức giá tăng của nhà tích trữ khoảng 50 TRY (16usd)/tấn trong một tuần.
Trong khi đó, giá phôi thanh trên thị trường trong nước cũng tăng cường trong tuần qua cùng với giá tăng nhà máy. Kardemir xác định giá bán mới đối với phôi thanh tiêu chuẩn tại mức 340-345usd/tấn xuất xưởng, tăng 10usd/tấn so với giá niêm yết trước đó, trong khi một số nhà máy khác cũng tăng giá chào phôi thanh đến thị trường trong nước. Như vậy, chào giá phôi thanh trong nước trong phạm vi đạt 340-350usd, trong khi chào giá của các nhà máy phôi thanh CIS đạt mức khoảng 335-340usd/tấn CFR tuần trước, các nguồn tin thương mại cho biết.
Hoạt động tích trữ làm thúc đẩy thị trường quặng sắt hồi phục
Thị trường quặng sắt nhập khẩu đã hồi phục trong tuần trước vì các nhà máy tái tích trữ nguyên liệu sau Tuần Lễ Vàng.
Platts 62% Fe IODEX được định giá cao hơn tuần trước đó 2,7 USD/dmt còn 57,55 USD/dmt CFR miền bắc Trung Quốc.
Sự mạnh hơn của thị trường thép cũng góp phần khiến giá tăng, với giá phôi vuông giao ngay ở Đường Sơn tăng 80 NDT/tấn lên 2.160 NDT/tấn (321,63 USD/tấn) xuất xưởng.
Tuy nhiên, triển vọng cho quý 4 khá u ám, vì thời tiết mùa đông làm cản trở hoạt động xây dựng cũng như cơ sở hạ tầng của Trung Quốc- cùng với chi phí than đá cao cũng gây sức ép lên lợi nhuận của nhà máy.
Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đã siết chặt chính sách tiền tệ và kiểm soát tín dụng càng làm nghiêm trọng hơn sự bi quan về thị trường thép. “Các kế hoạch của Ngân hàng trung ương nhằm làm hạn chế dòng tín dụng và chính sách thắt chặt tiền tệ đã làm giảm thêm niềm tin cho triển vọng ngành thép. Với lợi nhuận ngành thép vẫn còn tiêu cực, một số nhà máy đang cân nhắc cắt giảm sản lượng thép”.
Giá nguyên liệu tại cảng vẫn đang tăng vì các nhà máy tìm cách mua các lô có khối lượng nhỏ hơn vì thời gian giao hàng ngắn hơn, trong khi Nhân dân tệ mất giá cũng khiến cho tồn kho tại bến cảng hấp dẫn hơn. Tuy nhiên, các nguồn tin cho biết giá chỉ tăng hạn chế vì giá có thể vượt xa thị trường nhập khẩu.
Nhu cầu loại quặng cao cấp hơn đang tăng vì các nhà máy tìm cách giảm bớt sử dụng than đá, nên tìm mua nhiều quặng Vale's Carajas hơn. Khoảng cách giữa quặng loại 62% Fe và 65% Fe đã nới rộng lên 9,45 USD/dmt, tăng 20 cents so với tuần trước đó.
Thế nhưng, quặng cục chất lượng cao đã suy yếu, do tồn kho thừa mứa. Có nhiều ý kiến trái chiều về xu hướng giá quặng cục trong ngắn hạn- một số thì cho rằng chi phí than đá cao sẽ đẩy giá quặng lên cao hơn vì các nhà máy tìm cách giảm thiểu quá trình thiêu kết, mặc dù số khác thì cho rằng các nhà máy có thể hạn chế sử dụng quặng cục.
“Nhu cầu quặng cục thường mạnh nhất trong quý cuối cùng của năm vì mùa đông làm giảm nhu cầu quặng tinh trong nước. Đợt hạn chế hoạt động thiêu kết gần đây ở Đường Sơn cũng sẽ hỗ trợ cho quặng cục.
Tuy nhiên, một số cho biết các nhà máy có thể không sử dụng quặng cục nhiều hơn 20-25% vì gánh nặng lò nung của họ. “Không thiếu quặng cục và chúng tôi đã thoải mái với tỷ trọng 20% nguyên liệu đầu vào là quặng cục”, một nhà máy thép ở miền đông nói.
Platts định giá quặng cục giao ngay là 0,155 USD/dmtu hôm thứ Tư, giảm 0,0035 USD/dmtu (2,2%) so với 1 tuần trước đó.
Giá chốt mua phế Tây Bắc Âu giảm hơn nữa
Thị trường phế Tây Bắc châu Âu đã tiếp tục quỹ đạo đi xuống, với giá chốt hàng tháng giảm mạnh hơn nữa trong tháng 10 trong bối cảnh giá xuất khẩu suy yếu, nguồn tin cho biết hôm thứ Sáu.
Các nguồn tin ở Đức báo cáo giá chốt tháng 10 đã giảm 10-15euro/tấn so với tháng trước đó, tùy thuộc vào từng hợp đồng riêng rẽ, khiến E (phế vụn) trong khoảng 170-180euro/tấn đã giao. Giá Pháp bị tác động mạnh hơn, với các nguồn tin cho biết mức giảm 15-20euro/tấn, khiến cho E40 trong phạm vi 170-175euro/tấn đã giao.
Mức giá thấy nhìn thấy trong thị trường nhập khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ từ cuối tháng 09 đã không đủ đòn bẩy cho thị trường trong nước trong thời gian này. Sau sự thiếu vắng hoạt động từ Thổ Nhĩ Kỳ trong những tháng gần đây, giá trong nước đã trở nên cao hơn chào giá xuất khẩu, các nguồn tin cho biết. "Hiện giờ với sự tăng giá ở Thổ Nhĩ Kỳ, giá cả [trong nước và xuất khẩu] giá sẽ gần nhau nhất, nếu bạn so sánh cho từng loại,"một thương nhân người Đức nói.
Tại Pháp, thị trường xuất khẩu đã có những cải thiện trong tín hiệu giá nhập khẩu Thổ Nhĩ Kỳ mạnh mẽ hơn, nhưng nhu cầu tiêu thụ ảm đạm dẫn đến một sự suy giảm hơn nữa trong thị trường trong nước, các nguồn tin cho biết. "Thị trường xuất khẩu tốt hơn, nhưng mọi thứ rất yên tĩnh trong nước", một thương nhân người Pháp cho biết. "Chúng tôi không có nhiều đơn đặt hàng từ các nhà máy thép vì họ có rất nhiều phế trong kho bãi, họ không có nhiều đơn đặt hàng cho thép thành phẩm," ông nói.
Giá cả cũng giảm 150 SEK/tấn (15,41euro/tấn) tại thị trường phế của Thụy Điển, theo nhóm các nhà máy thép tại địa phương, Järnbruksförnödenheter.
Platts định giá hàng tháng phế vụn Bắc Âu còn 170-180euro/tấn đã giao, giảm 15 euro/tấn so với tháng trước.
Thép cuộn CIS tăng theo giá Trung Quốc và chi phí phát sinh
Các nhà máy Nga đã duy trì chào giá xuất khẩu thép cuộn cán nóng ổn định ở mức 410usd/tấn FOB Biển Đen trong tuần trước, trong khi các nhà máy Ukraine đã kéo giá lên mức 400-405usd/tấn.
Mặc dù không có doanh số bán HRC nguồn gốc Ukraina được nghe nói, các thương nhân cho rằng phạm vi khả thi mới là390-400usd/tấn FOB Biển Đen. Tâm lý thị trường thép cuộn CIS hiệ đang tươi sáng do giá xuất khẩu thép cuộn cán nóng của Trung Quốc tăng, và chi phí do đầu vào tăng vọt chủ yếu là từ mức giá tăng của than cốc.
Sau khi duy trì ổn định trong suốt tuần đầu tiên của tháng 10, giá xuất khẩu HRC của Trung Quốc tăng 12usd /tấn trong tuần trước lên mức 381usd/tấn FOB Trung Quốc, theo định giá của Platts. Giá chuẩn than cốc PLV của Platts đã chốt tuần trên mức 231usd/tấn FOB Australia thứ Sáu, có nghĩa là chi phí của than như vậy đã tăng gấp ba lần kể từ đầu năm nay. Giá phế cũng tăng lên đến 221usd/tấn CFR trong suốt tuần qua.
Vào ngày thứ Sáu 14 /10, Platts tăng định giá hàng ngày của HRC nguồn gốc CIS lên mức 390-400usd/tấn FOB Biển Đen, tăng 5usd/tấn trong ngày với định giá CRC tăng lên mức 2,50usd/tấn lên đến 430-440usd/tấn FOB.
Vua Thái Lan qua đời khiến nhiều công ty Nhật Bản lo lắng
Việc nhà Vua Thái Lan qua đời vào thứ Năm tuần trước có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế nước này vì cả nước sẽ để quốc tang 1 năm, đang làm dấy lên nhiều quan ngại ở Tokyo.
Một nguồn tin từ công ty sản xuất phụ tùng ô tô chi nhánh của Nhật đặt tại Thái Lan cho biết chính phủ Thái Lan dường như nhận ra sự cần thiết phải cố gắng và giảm bất cứ sự tác động nào đến nền kinh tế nước này, nhưng vẫn có sự quan ngại về chi tiêu của người tiêu dùng sụt giảm.
Bangkok Post trích dẫn lời của Chủ tịch Tổ chức đối ngoại Nhật Bản tại Thái Lan- Hiroki Mitsumata rằng các doanh nghiệp sản xuất thép của Nhật đã bày tỏ sự quan tâm đến việc đầu tư vào sản xuất thép chuyên dụng ở nước này. “Nhật Bản muốn Thái Lan là một trung tâm sản xuất thép loại cao cấp và xuất khẩu sang các nước Asean. Chúng tôi hy vọng Thái Lan sẽ hỗ trợ cho các công ty thép của chúng tôi để đầu tư ở đây”.
Mitsumata tuyên bố các công ty thép lớn của Nhật, trong đó có Nippon Steel & Sumitomo Metal Corp, đã bàn kế hoạch đầu tư với Bộ trưởng công nghiệp Thái Lan Atchaka Sibunruang.
Trong 8 tháng đầu năm nay, Thái Lan đã thay thế Trung Quốc để trở thành thị trường xuất khẩu thép lớn thứ hai của Nhật sau Hàn Quốc, với 3,94 triệu tấn, tăng 12% so với năm ngoái, số liệu từ Liên đoàn Sắt thép Nhật Bản cho biết. Không có gì ngạc nhiên khi vương quốc Thái Lan và bổ nhiệm người kế vị đang được theo dõi chặt chẽ từ Nhật Bản.
Định giá phôi thanh CIS
Platts định giá xuất khẩu phôi thanh CIS hàng ngày ở mức 320usd/tấn FOB Biển Đen Thứ sáu, ổn định trong ngày.
Giao dịch cuối cùng nghe nói khoảng 320-323usd/tấn FOB Biển Đen. Một nhà kinh doanh ghi nhận giao dịch mới có thể được ký kết tại mức 330-340usd/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ, tương đương với 320-325usd/tấn FOB Biển Đen, nhưng chi tiết không rõ ràng.
Chào giá đã được nghe nói ở mức khoảng 330-345usd/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ, hoặc khoảng 320-330usd/tấn FOB Biển Đen, thương nhân này cho biết.
Platts duy trì định giá tại mức 320usd/tấn FOB là giá trị giao dịch mới nhất đã được nghe nói ở xung quanh phạm vi giá FOB Biển Đen này.
Giá HRC, CRC Mỹ chốt tuần ở mức giảm
Sự suy giảm của giá HRC Và CRC của Mỹ đã tiếp tục vào thứ Sáu do các nguồn tin thị trường đã cho thấy chào giá nhà máy và giá giao dịch thấp hơn.
Platts hạ định giá HRC và CRC hàng ngày còn 480-500usd/tấn ngắn, giảm từ mức 490-500usd/tấn ngắn, và 700-720usd/tấn ngắn, giảm từ mức 710-730usd/tấn ngắn, tương ứng. Cả hai định giá này được chuẩn hóa theo cơ sở giá xuất xưởng Midwest (Indiana).
Một nguồn tin nhà máy cho biết đơn hàng đã tốt hơn "nhưng vẫn giảm" và giá nghe nó ở mức thấp 460usd/tấn ngắn từ một nhà máy cạnh tranh. Ông hy vọng mức giá đáy sẽđạt được tại thời điểm nào đó trong tháng 11 do một số nhà máy tạm ngừng sản xuất diễn ra và "thu mua cuối năm hỗ trợ thời gian giao hàng."
Nhìn chung giá giao ngay HRC là khoảng 470usd/tấn ngắn đến và 490usd/tấn ngắn, theo nguồn tin nhà máy.
Một nguồn tin bên mua cho biết đang thu mua một đơn hàng HRC cho một vài nghìn tấn, mà ông vẫn chưa đặt hàng cụ thể nhưng cho biết ông đã nhìn thấy chào giá dưới 460usd/tấn ngắn. Tuy nhiên, ông cho biết các đơn hàng nhỏ hơn cho 50-100 tấn ngắn của HRC là khoảng 480usd/tấn ngắn từ hầu hết các nhà máy mini.
Mặc dù chào giá thấp hơn người mua này cho rằng "nhu cầu tiêu thụ đang rất nghèo nàn, chúng tôi đã không có đơn hàng để thực sự kiểm tra thị trường."
Một nguồn tin bên mua thứ hai nói rằng đã nhìn thấy 460usd/tấn ngắn cho HRC xuất hiện nhiều hơn và "dường như người mua không hài lòng và đang đẩy xuống mức thấp hơn." Đối với các đơn đặt hàng HRC khối lượng nhỏ, ông lưu ý rằng hầu hết các nhà máy mini mini ở mức khoảng 480usd/tấn ngắn, “nếu bạn hỏi mua."
Tuy nhiên, hai nguồn tin trung tâm dịch vụ khác cho biết họ vẫn đang thấy mức 500usd/tấn ngắn cho HRC tại thị trường giao ngay, với giá CRC trong phạm vi 700usd/tấn ngắn đến 720usd/tấn ngắn, tùy thuộc vào nhà máy. Một trong những nhà phân phối cho biết thời gian giao hàng HRC đã "rút ngắn", nhưng ông vẫn đang nhìn thấy lần thời gian giao hàng thuận tiện trong sáu tuần cho các sản phẩm CR.
Giá cuộn trơn giảm hơn nữa do chi phí phế thấp hơn
Giá cuộn trơn tiếp tục giảm do giá mua phế thấp hơn trong tháng Mười, những người tham gia thị trường cho biết hôm thứ Sáu.
Sự sụt giảm giá phế đang gây sức ép lên các nhà máy cuộn trơn và hầu hết đang phản ứng cho phù hợp, một nhà sản xuất cuộn trơn cho biết. Giá phế obsolete giao dịch ở mức giảm 20usd/tấn dài ở hầu hết các khu vực trong khi đó phế priem giảm 30usd/tấn dài trong tuần mua tháng Mười.
Mức giảm này, kết hợp với sự suy yếu nhu cầu tiêu thụ cuộn trơn, đã dẫn đến chào giá thấp hơn từ các nhà máy, nguồn tin cho biết. "Nhu cầu chỉ là không có để hỗ trợ định giá cao hơn", một nhà phân phối cho biết.
Platts hôm thứ Sáu hạ định giá cuộn trơn dạng lưới hàng tuần còn 460-480usd/tấn ngắn, giảm từ mức 470-490usd/tấn ngắn.
Nhu cầu tiêu thụ thường chậm vào thời điểm này của năm do định mức theo mùa, nhưng suy thoái hiện nay đã mạnh mẽ hơn so với dự kiến, theo các nhà sản xuất cuộn trơn. Nhu cầu tiêu thụ ô tô đã giảm xuống và hoạt động kinh daonh trong lĩnh vực xây dựng đang chậm lại, nhưng với tốc độ khác nhau, ông nói.
Sau khi tăng mạnh trong quý đầu tiên, chi tiêu xây dựng của Mỹ đã giảm trong những tháng gần đây, theo số liệu mới nhất từ Cục Thống kê Số liệu Mỹ. Trong khi tổng mức chi tiêu trong 8 tháng đầu năm nay lên tới 755 tỷ USD $, cao hơn 4,9% so với mức 720 tỷ chi tiêu trong cùng kỳ năm 2015, các nhà phân phối cho biết tăng trưởng nhu cầu đáng kể sẽ không diễn ra trong 3 tháng cuối năm 2016.
Tuy nhiên, các nguồn tin lạc quan rằng giá thép có thể gần đạt đáy, và có thể không đạt mức thấp hồi thấy cuối tháng 11 và tháng 12, khi giá cuộn trơn giảm xuống còn 400- 430usd/tấn ngắn vào đầu tháng 12.
"Năm nay tôi không dự đoán giá phế liệu đạt mức 160usd mà chúng ta đã thấy vào tháng 11 và tháng 12 năm ngoái,” nhà kéo cuộn trơn nói. "Chúng tôi có thể gần hơn, nhưng tôi không nghĩ rằng giá sẽ có mức thấp do giá mạnh hơn trong quặng sắt và các thị trường dầu thô, cũng như một thị trường phôi thanh ít nguy cấp hơn của Trung Quốc, ít nhất là lúc này."
Điều sẽ tạo thêm áp lực hơn lên giá phế chính là một số kế giảm sản xuất định kỳ trong tháng 10 và tháng 11 được thực hiện bởi nhiều nhà máy thép cuộn trơn lớn sẽ cắt giảm thu mua phế, ông nói thêm.
Sản lượng thép dẹt của Ấn Độ đang tăng, tiêu thụ tăng nhẹ
Các nhà sản xuất thép Ấn Độ tiếp tục báo cáo sản lượng thép dẹt gia tăng mặc dù số liệu tiêu thụ cho thấy sự sụt giảm. Essar Steel thông báo sản lượng thép dẹt tăng 58% so với năm ngoái đạt 1,34 triệu tấn trong quý kết thúc vào ngày 30/9.
Sản lượng tôn phủ màu của công ty tăng 98% so với năm ngoái lên 81.000 tấn từ tháng 7 tới tháng 9. Tuy nhiên, theo số liệu mới nhất được công bố bởi Joint Plant Committee, thì tổng mức tiêu thụ của tôn mạ màu giảm 8,5% xuống 2,44 triệu tấn từ tháng 4 tới tháng 8. “Khối lượng rất ấn tượng mặc dù sẽ thật thú vị để thấy xu hướng này duy trì được trong bao lâu vì nhu cầu tiếp tục teo tóp”, Goutam Chakraborty, nhà phân tích của công ty xếp hạng chứng khoán ở Mumbai -Emkay Global cho biết.
Thế nhưng, một quan chức cấp cao tại Essar khẳng định công ty đã có doanh số hàng quý tăng. Nhu cầu chủ yếu đến từ các lĩnh vực tiêu dùng trực tiếp chẳng hạn như sản xuất ô tô, kỹ thuật nói chung, và nhu cầu từ lĩnh vực cán lại thép.
Hơn thế nữa, sự sụt giảm trong nhập khẩu cũng đã giúp các nhà máy trong nước tăng cường doanh số bán ra. Tổng lượng thép dẹt nhập khẩu của Ấn Độ đã giảm 35% so với năm ngoái xuống 2,53 triệu tấn từ tháng 4 tới tháng 8.
Essar Steel vận hành một nhà máy liên hợp công suất 10 triệu tấn/năm ở Hazira, bang Gujarat.
Hồi đầu tháng này, hầu hết các nhà máy thép lớn của Ấn Độ, trong đó bao gồm Steel Authority of India Limited, Tata Steel và JSW Steel đều thông báo họ đã đạt được sản lượng hàng quý cao nhất từ trước tới nay trong quý trước.
Tuy nhiên, từ tháng 4 tới tháng 9, tiêu thụ thép thành phẩm của cả nước chỉ tăng nhẹ 2,5% so với năm ngoái lên 40,56 triệu tấn, ngược với mức tăng 9% về sản lượng lên 48,85 triệu tấn.
Giá CRC không gỉ Châu Á tăng do chi phí cao hơn
Giá CRC không gỉ loại 304 2mm 2B xuất xứ từ Đài Loan và Hàn Quốc đã tăng 35 USD/tấn trong tuần trước lên 1.850-1.950 USD/tấn CFR cảng Đông Á và Đông Nam Á.
Giá tăng chủ yếu là do giá nguyên liệu cao hơn chẳng hạn như nickel và ferrochrome. Các nhà máy Đài Loan lớn đã duy trì giá niêm yết xuất khẩu cho tháng 10, điều này cho thấy những nỗ lực thu hút người mua của họ vì sự cạnh tranh từ Trung Quốc. Khách hàng có thể đặt mua từ các nhà máy Đài Loan với mức giá thấp chỉ có 1.850 USD/tấn CFR.
Trong khi đó, chào giá cho thép của Hàn Quốc đã tăng lên khoảng 1.990 USD/tấn, do nguồn cung HRC dùng để sản xuất hạn chế và sự thật là các nhà máy đã có đủ đơn hàng trong tay. Nhưng người mua ở Trung Quốc có thể mua CRC từ Hàn Quốc tại các kho ngoại quan của Trung Quốc với giá khoảng 1.860 USD/tấn CFR.
Tại thị trương Trung Quốc- các nhà xuất khẩu vẫn đang chào giá khoảng 1.850 USD/tấn FOB cho 304 2mm 2B CRC từ các nhà máy hàng đầu của Trung Quốc để giao trước.
Người mua đang đợi định hướng thị trường vì họ không đặt mua vào lúc này. Vẫn còn một khoảng cách giữa chào giá Trung Quốc với giá mua lý tưởng 1.750 USD/tấn FOB mà người mua ở Ấn Độ đưa ra. Nhưng các thương nhân miễn cưỡng để hạ chào giá thêm nữa do thị trường Trung Quốc tăng kể từ cuối tháng 9.
Giá giao dịch chính thức bằng tiền mặt của niken trên sàn London Metal Exchange chốt tại 10.410-10.415 USD/tấn hôm 13/10, tăng 296 USD/tấn so với tuần trước đó.
NSSMC duy trì giá thép dầm hình H trong nước
Nippon Steel & Sumitomo Metal Corp (NSSMC) sẽ duy trì giá thép dầm hình H trong nước cho những hợp đồng tháng 10 (sản xuất tháng 11). “Nhưng chúng tôi sẽ phải bù cho chi phí than đá cao hơn càng sớm càng tốt”, phát ngôn viên của NSSMC cho biết hôm thứ Sáu.
Mức tăng 5.000 Yên/tấn (48 USD/tấn) của nhà máy được công bố vào đầu năm nay cho những hợp đồng tháng 5 vẫn chưa được thị trường chấp nhận. “Chúng tôi sẽ tiếp tục cố gắng và làm cho khách hàng hiểu và chấp nhận mức tăng trước đó. Sau đó, một khi chúng tôi thành công thì sẽ phải yêu cầu tăng thêm để bù lại chi phí phát sinh mà chúng tôi đang gánh chịu bởi giá than đá”.
Ông này từ chối bình luận về khả năng biên độ tăng của chi phí than đá nhưng lưu ý rằng NSSMC đã bắt đầu thương lượng với các nhà thầu về việc chấp nhận mức tăng thêm 10.000 Yên/tấn cho thép dầm hình H bán tới các dự án.
NSSMC không bao giờ tiết lộ giá niêm yết cho bất kỳ sản phẩm nào nhưng giá thị trường hiện nay của thép dầm hình H cỡ lớn ở Tokyo là khoảng 68.000-69.000 Yên/tấn (655-665 USD/tấn), không đổi so với 1 tháng trước đó nhưng giảm 2.000 Yên/tấn so với tháng 5.
Phát ngôn viên nhà máy cho biết tình hình thị trường đang cải thiện- tồn kho thép dầm hình đã giảm xuống mức đủ và giá tăng trước đó sẽ sớm được chấp nhận.
Tồn kho thép dầm tại các nhà phân phối vào cuối tháng 9 giảm 3,7% tức 6.900 tấn so với cuối tháng 8 xuống còn 180.300 tấn. Việc giao hàng từ các nhà phân phối tới khách hàng đã tăng 8,2% tức 6.700 tấn lên 88.700 tấn.
Một nhà phân phối ở Tokyo cho biết các nhà sản xuất đang có lập trường cứng rắn để nâng giá, vì vậy khách hàng sẽ phải hiểu giá sản phẩm sẽ trở nên cao hơn. “Chính sách giá của NSSMC có thể dẫn tới giá thị trường chạm đáy và bắt đầu tăng sớm”.
Trong khi đó, Nippon Steel & Sumikin Shapes ở Wakayama, miền tây Nhật Bản, cũng sẽ giữ giá thép dầm hình H không đổi cho tháng 10.
Thép cây Châu Á tăng do chào giá Trung Quốc cao hơn
Thị trường thép cây Châu Á lên cao hơn hôm thứ Sáu khi các nhà xuất khẩu Trung Quốc nâng chào giá vì giá giao sau trong nước tiếp tục tăng, và chi phí nguyên liệu cao hơn. Tuy nhiên, nhu cầu teo tóp vì người mua không nghĩ là giá sẽ tiếp tục đà tăng.
Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm ở mức 331-333 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế, tăng 3 USD/tấn so với ngày trước đó.
Chào giá thép cây Trung Quốc tới Hong Kong phổ biến ở mức 345-350 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế, tương đương 336-341 USD/tấn FOB, phí vận chuyển 9 USD/tấn. Nhưng khách hàng ở đó thấy thật khó để chấp nhận chào giá cao hơn 340 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế (331 USD/tấn FOB).
Các nhà xuất khẩu Trung Quốc đã chào giá trên 340 USD/tấn CFR Singapore trọng lượng lý thuyết, tương đương 335 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế và dung sai khối lượng 3%. Phí vận chuyển tới Singapore tăng do phí dỡ hàng cao. Người mua sẽ không đặt đơn hàng vì họ lo lắng rằng giá có thể sẽ sớm giảm.
Một nhà máy ở miền đông chào giá 350 USD/tấn CFR Hong Kong trọng lượng thực tế, trong khi một nhà máy ở miền nam chào giá cao 383 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế do doanh số trong nước tốt hơn. Một nhà máy ở đông bắc đã chào giá 335 USD/tấn CFR Hong Kong trọng lượng thực tế (326 USD/tấn FOB) vào đầu tuần trước, đã ngưng chào giá hôm thứ Sáu.
Người mua phôi thép Đông Nam Á thờ ơ trước chào giá Trung Quốc tăng
Giao dịch phôi thép nhập khẩu trên thị trường Đông Nam Á thưa thớt, vì các nhà cung cấp Trung Quốc nâng chào giá sau lễ Quốc khánh.
Chào giá cho phôi thép 120/130mm Q275 từ Trung Quốc đang phổ biến ở mức 350-355 USD/tấn CFR Manila hôm thứ Sáu. Hầu hết cho biết họ không nghe nói bất cứ đơn hàng nào được thực hiện, mặc dù một số người nghe nói khoảng 5.000 tấn Q235 được đặt mua vào giữa tuần có giá 335 USD/tấn CFR Batangas, giao tháng 12.
Các nguồn tin không xem đây là mức giá đại diện cho thị trường vì nó thấp hơn nhiều so với chào giá khác trên thị trường, và dành cho khối lượng nhỏ.
Chào giá phôi thép Trung Quốc đã giảm xuống khoảng 350 USD/tấn CFR Manila vào chiều thứ Sáu từ mức 355-360 USD/tấn CFR trước đó. Ông nghĩ người mua ở Philippines đang cố gắng đặt hàng với giá 340-345 USD/tấn CFR nếu giá phôi thép Trung Quốc không suy yếu.
Người mua đang có thái độ chờ đợi vì dường như có nhiều nhà cung cấp hơn trên thị trường bây giờ và một số chào giá là để giao ngay vào đầu tháng 11.
Tại Thái Lan, chào giá Trung Quốc cho phôi thép 150mm Q275 trong suốt tuần trước là 340 USD/tấn CIF Ko Sichang. “Hầu hết khách hàng đều muốn đợi xem sao. Một người khác cho biết giao dịch đã ngưng lại trong khi đang diễn ra đám tang của nhà Vua.
Platts định giá nhập khẩu phôi thép 120/130mm hàng tuần ở mức 340-345 USD/tấn CFR, tăng từ 335-340 USD/tấn CFR của tuần trước đó. Mức giá trung bình 342,5 USD/tấn, cao hơn 5 USD/tấn so với tuần trước đó.
HRC Châu Á tăng nhờ giá Trung Quốc mạnh hơn
Thị trường HRC Châu Á ổn định trong ngày thứ Sáu giữa bối cảnh thị trường Trung Quốc tăng. Platts định giá SS400 HRC 3.0mm ở mức 380-383 USD/tấn FOB, bằng với ngày trước đó.
Thép cuộn cùng loại được định giá 390-393 USD/tấn, tăng 16 USD/tấn so với tuần trước. Tại thị trường Thượng Hải, Q235 5.5mm HRC có giá 2.830-2.850 NDT/tấn (421-424 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT, cao hơn ngày trước đó 25 NDT/tấn.
Hôm thứ Sáu, chào giá cho SS400 HRC từ hầu hết các nhà máy lớn ở Trung Quốc không đổi so với ngày trước đó là 380-390 USD/tấn FOB. Rizhao Iron & Steel đã nâng chào giá cho SS400 HRC lên 395 USD/tấn FOB từ mức 380 USD/tấn FOB trước đó.
Một số đại lý trao đổi với Platts rằng giá có thể giao dịch cho SAE HRC tại Việt Nam là 405 USD/tấn CFR. Nhưng một thương nhân ở Thượng Hải cho biết hầu hết người mua ở mức giá này vẫn là những người tin rằng giá HRC Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng trong tương lai gần. “Tôi biết, hầu hết người Việt Nam chỉ có thể chấp nhận mức giá khoảng 400 USD/tấn CFR vào lúc này”.
Một thương nhân khác ở Thượng Hải cho biết các nhà máy khá kiên trì trong việc bảo vệ chào giá do thị trường Trung Quốc mạnh lên, vì vậy không có nhiều khả năng để người mua thương lượng. Tuy nhiên, một thương nhân khác cũng ở Thượng Hải cho biết người mua ở nước ngoài vẫn còn thận trọng về giá tăng ở Trung Quốc.