Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 12/11/2021

 Giá thép châu Á bật tăng trở lại

Thị trường nội địa Trung Quốc phục hồi trở lại nhờ sự hỗ trợ từ lượng hàng tồn kho hàng tuần giảm, các nhà máy ngừng hoạt động để bảo trì và các dấu hiệu nới lỏng chính sách đối với lĩnh vực bất động sản.

Dự trữ thép cây và thép cuộn cán nóng (HRC) của các công ty thương mại giảm khoảng 370.000 tấn trong tuần này, nhanh hơn mức giảm 250.000 tấn của tuần trước, cho thấy nhu cầu không yếu kém như dự kiến, những người tham gia thị trường cho biết. Dự trữ của nhà máy tăng nhưng tồn kho nói chung giảm và gần như không đổi so với một năm trước.

Thị trường đang xôn xao rằng chính quyền trung ương Trung Quốc có thể nới lỏng các quy định đối với các nhà phát triển bất động sản để giúp các công ty dễ dàng mua lại tài sản từ các đối thủ cạnh tranh mắc nợ. Điều này sẽ cho phép ngành này củng cố và duy trì các dự án đúng tiến độ, điều này sẽ hỗ trợ nhu cầu thép. Nguồn cung thế chấp cũng có thể tăng lên.

Hợp đồng HRC tương lai tăng vọt khi ngày càng có nhiều người bán khống đóng vị thế sau khi các nhà máy hôm thứ Tư cho biết họ sẽ từ chối bán thép cuộn để thanh toán hợp đồng. Hôm thứ Năm, nhiều nhà máy đã thông báo ngừng hoạt động bảo trì nhằm vào sản lượng thép dài. Những người tham gia cho biết sản lượng thép cây giảm hơn 50.000 tấn trong tuần này so với tuần trước.

Thép cuộn

Giá HRC xuất kho tại Thượng Hải tăng 150 ndt/tấn lên 4.850 ndt/tấn. HRC kỳ hạn tháng 1 tăng 7.98% lên 4.696 ndt/tấn. Baosteel giảm giá xuất xưởng HRC 300 ndt/tấn và giá xuất xưởng thép tấm 200 ndt/tấn cho các đợt giao hàng tháng 12, thấp hơn nhiều so với dự kiến sau khi giá HRC xuất xưởng trong nước giảm 1.150 ndt/tấn kể từ ngày 11/10. Tồn kho HRC do các nhà máy và thương nhân nắm giữ đã giảm hơn 40.000 tấn trong tuần này, nhanh hơn mức giảm 20.000 tấn vào tuần trước, trong khi sản lượng của các nhà máy tăng so với tuần trước. Dữ liệu hàng tồn kho cho thấy nhu cầu thị trường mạnh hơn dự kiến, đóng góp vào sự phục hồi của giá hôm thứ Năm.

Giá xuất khẩu HRC  Trung Quốc tăng 2 usd/tấn lên 780 usd/tấn fob. Hầu hết các nhà giao dịch đã rút các chào hàng ra khỏi thị trường để phản ứng với sự nhảy vọt của giá trên thị trường hợp đồng kỳ hạn và thị trường hàng sẵn có của Trung Quốc. Một số người mua bằng đường biển đã háo hức đặt hàng hôm thứ Năm, nhưng những thương nhân không có hàng trong tay không dám bán vì họ không chắc liệu họ có thể đảm bảo thép cuộn ở mức giá dưới 780 usd/tấn fob Trung Quốc từ các nhà máy Trung Quốc hay không, một thương nhân ở phía đông Trung Quốc cho biết. Những ngày gần đây, một thỏa thuận cho vài nghìn tấn HRC SS400 của Trung Quốc được bán với giá 790 usd/tấn cfr Việt Nam, nhưng đó là lô hàng tháng 2 và có thể giao dịch trong xu hướng tăng hiện nay, những người tham gia cho biết. Một số người tham gia bên ngoài Trung Quốc nghi ngờ rằng mức tăng giá của hôm thứ Năm là bền vững và giữ thái độ thận trọng.

Chỉ số HRC Đông Nam Á tăng 2 usd/tấn lên 843 usd/tấn. Nhiều thương nhân đã rút lại chào giá 840-850 usd/tấn cfr Việt Nam vào buổi chiều sau khi giá bán nội địa của Trung Quốc tăng vọt. Một số người mua Việt Nam lấy làm tiếc vì họ đã không mua thép cuộn của Trung Quốc vào đầu tuần này, một thương nhân tại Việt Nam cho biết. Nhưng vẫn có những chào giá ở mức 810-840 usd/tấn cfr Việt Nam cho cuộn  SAE1006 được sản xuất từ Trung Quốc, Kazakhstan và Ấn Độ. Những người mua lớn của Việt Nam thường sẽ chỉ mua sau khi các nhà máy trong nước như Formosa Hà Tĩnh và Hòa Phát công bố chào giá hàng tháng.

Giá thép tấm của Trung Quốc giảm so với tuần trước. Một nhà máy ở phía bắc Trung Quốc đã cắt giảm giá xuất khẩu thép tấm 50usd/tấn xuống còn 860 usd/tấn fob trong tuần này theo xu hướng giảm trong nước. Một nhà máy khác ở phía bắc Trung Quốc chào giá thép tấm SS400 ở mức 870usd/tấn fob vào đầu tuần này sau khi vắng mặt trên thị trường trong tuần trước. Một nhà máy ở miền đông Trung Quốc giữ nguyên giá ở mức 875 usd/tấn fob. Các nhà máy vẫn chưa tích cực xuất khẩu với giá thép tấm trong nước gần ngang bằng với giá xuất khẩu tương đương 850-860 usd/tấn.

Mức giá chỉ báo của các nhà máy Trung Quốc đối với thép cuộn cán nguội là 860-900 usd/tấn fob trong tuần này, giảm từ 920-930 usd/tấn fob trong tuần trước và mức khả thi đối với thép mạ kẽm nhúng nóng (HDG) là 900 usd/tấn fob cho Zn80g và 920 usd/tấn fob cho Zn100-120g.

Thép cây

Giá thép cây tại Thượng Hải tăng 120 ndt/tấn lên 4.800 ndt/tấn. Giá thép cây giao tháng 1 tăng 7.42% 4.443 ndt/tấn. Dự trữ thép cây của các thương nhân và nhà máy giảm 260.000 tấn trong tuần này, cao hơn mức giảm 50.000 tấn trong tuần trước. Đà giảm tồn kho đó đã thúc đẩy triển vọng nhu cầu. Những người tham gia cho biết, buôn bán thép cây ở các thành phố lớn đã tăng 40.000 tấn lên 220.000 tấn hôm thứ Năm so với thứ Tư. Nhà máy Shagang ở Đông Trung Quốc đã giảm giá thép cây xuất xưởng khoảng 450 ndt/tấn xuống còn 5.100 ndt/tấn cho đợt giao hàng giữa tháng 11, nhưng mức giá này vẫn cao hơn giá bán của thương nhân tại các thị trường lớn phía Đông Trung Quốc. "Xu hướng thị trường là không rõ ràng, vì vậy tốt hơn là nên thận trọng thay vì đặt cược giá đã chạm đáy," một thương nhân ở phía đông Trung Quốc cho biết.

Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc không thay đổi ở mức 756 usd/tấn fob trọng lượng lý thuyết dựa trên chào giá ổn định từ các nhà máy lớn của Trung Quốc ở mức 780-800 usd/tấn fob trọng lượng lý thuyết. Các nhà máy Trung Quốc được cho là sẽ giảm giá nhiều hơn cho các hợp đồng xuất khẩu với triển vọng giá giảm trong mùa đông, nhưng họ muốn chờ đợi xu hướng giá rõ ràng hơn trong ngày hôm nay. Giá thép cây nội địa Trung Quốc hôm thứ Năm tăng lên mức tương đương 710-760 usd/tấn trọng lượng lý thuyết.

Cuộn trơn và phôi

Giá xuất khẩu thép cuộn trơn của Trung Quốc không đổi ở mức 771 usd/tấn fob với các nhà máy lớn giữ giá 790 usd/tấn fob. Một nhà sản xuất ở Bắc Trung Quốc cho biết: “Một số nhà máy ở Đường Sơn đã giảm giá thép cuộn trơn xuống còn 730 usd/tấn fob hôm thứ Tư, nhưng giá đã rút khỏi thị trường hôm thứ Năm sau khi giá trong nước tăng trở lại,” một nhà sản xuất phía Bắc Trung Quốc cho biết và thêm rằng vẫn khó thực hiện giao dịch trong bối cảnh biến động. Một nhà máy khác ở phía đông Trung Quốc vẫn giữ mức chào hàng thép cuộn trơn cacbon cao ở mức 870 usd/tấn fob với giá xuất xưởng trong nước đối với thép cuộn loại thông thường là 5.260 ndt/tấn tương đương 822 usd/tấn cho đợt giao hàng giữa tháng 11. Thép cuộn của Indonesia được chào bán ở mức 740 usd/tấn cfr Đông Nam Á hôm thứ Tư.

Mua bán giao ngay phôi thép nhập khẩu của Trung Quốc vẫn trầm lắng với giá cả lên xuống nhanh chóng. Giá chào bán phôi thép của các thương nhân đã giảm xuống còn 4.000 ndt/tấn vào sáng thứ Tư, sau đó tăng lên 4.450-4.500 ndt/tấn tương đương 695-703 usd/tấn vào chiều thứ Năm. Giá chào bán phôi thép Việt Nam và mức khả thi ở mức 660-670 usd/tấn fob. Chào giá phôi Indonesia và mức khả thi giữ ở mức 675-680 usd/tấn cfr Đông Nam Á. Người mua Philippines đã tăng giá thầu mua lên 670 usd/tấn cfr đối với phôi thép 120-130mm do sự phục hồi tại Trung Quốc.

Giá xuất xưởng phôi Đường Sơn không đổi ở mức 4.450 ndt/tấn.

Giá quặng concentrate giảm do nhu cầu bị hạn chế

Giá quặng concentrate Ukraina đã giảm trong tuần này do các nhà máy thép hạn chế mua quặng chất lượng cao hơn trong bối cảnh biên lợi nhuận thép giảm.

Chênh lệch giá tăng thả nổi đối với quặng concentrate Ukraina là 2,50 usd/tấn khô (dmt) so với chỉ số quặng fines 65% tháng 1, giảm 50 cent/dmt so với tuần trước. Chênh lệch giá giảm của concentrate Australia mở rộng mức tương tự lên 4,50 usd/dmt so với chỉ số quặng fines tháng 12 65%. "Nhu cầu cho concentrate đã giảm do nhu cầu pellet yếu hơn. Các nhà máy đang có xu hướng sử dụng các loại quặng cấp thấp hơn trong bối cảnh lỗ ngày càng lớn," một thương nhân có trụ sở tại Thượng Hải cho biết.

Chào giá

Một lô concentrate Ukraina hàm lượng lưu huỳnh thấp kích cỡ capsize với laycan tháng 11 đã được chào bán với mức chênh lệch giá tăng là 3 usd/dmt hôm thứ Tư, giảm từ mức chào giá ở mức cao nhất là 6 usd/dmt vào tuần trước, so với chỉ số 65% tháng 1. "Chúng tôi nghe nói rằng có một giá chào mua hơn 2 usd/dmt trong tuần này cho lô hàng này," một thương nhân ở phía đông Trung Quốc cho biết. Ông nói thêm: “Tuần này khó bán concentrate và chúng tôi nghe nói rằng có những thương nhân có kế hoạch đưa quặng Ukraine của họ tại cảng.

Một lô háng khác có hàm lượng lưu huỳnh thấp của Ukraine được chào bán với mức chênh lệch giá tăng là 5 usd/dmt, trong khi một lô hàng hóa khác có hàm lượng lưu huỳnh cao được chào bán với mức chênh lệch giá tăng là 2 usd/dmt, cả hai đều dựa trên chỉ số 65% tháng 1. Một lô concentrate Atacama của Chile, với laycan vào giữa tháng 11, đã được chào bán hôm thứ tư với mức chênh lêch tăng 5 usd/dmt. Một lô khác của Chile, Huasco, được chào bán với mức chênh lệch tăng là 8 usd/dmt trong cùng ngày, cả hai đều dựa trên chỉ số 65% của tháng giao hàng. Một lô hàng 170.000 tấn concentrate của Peru với laycan tháng 11 đã được chào bán với mức chênh lệch tăng là 11 usd/dmt so với chỉ số 65% của tháng giao hàng, giảm so với mức chào bán ở mức chênh lệch giá tăng 13 usd/dmt vào tuần trước.

Giá trong nước

Giá concentrate  nội địa Trung Quốc tiếp tục giảm, với mức giá giảm 3-176 ndt/dmt (0,50-27,40 usd/dmt), so với mức giảm 37-45 ndt/dmt một tuần trước.

Concentrate Đường Sơn được định giá tại mức cao hơn tương đương 40-45 ndt/tấn ướt (wmt) so với giá concentrate Ukraine lưu huỳnh thấp tại cảng, thay đổi so với mức chênh lệch giảm ở 21 ndt/wmt vào tuần trước.

Các lô concentrate nội địa với 66% Fe được chào bán ở mức 852 ndt/dmt, chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng, tại thành phố Handan của Hà Bắc, giảm 116 ndt/dmt so với mức 968 ndt/dmt một tuần trước đó.

Một thương nhân ở miền Bắc Trung Quốc cho biết: “Việc giá concentrate trong nước giảm đã kéo dài sự sụt giảm của giá nhập khẩu tại cảng trong tuần qua.” 

Concentrate Ukraina lưu huỳnh thấp được giao dịch ở mức 855 ndt/wmt và 860 ndt/wmt tại cảng Sơn Đông vào ngày 9/11, giảm 180-185 ndt/wmt so với giao dịch cùng loại vào ngày 29/10.

Concentrate Ukrain lưu huỳnh cao được giao dịch ở mức 785 ndt/wmt ngày hôm qua. Một lô hàng concentrate của Mexico với 66,83% Fe đã được chào bán ở mức 1.070 ndt/wmt tại cảng Lanshan vào ngày 8 tháng 11, trong khi concentrate lưu huỳnh thấp của Ukrainai được chào bán ở mức 795 usd/wmt tại cảng Sơn Đông.

 

"Chúng tôi vẫn còn hàng tồn kho trong tay vì việc hạn chế sản xuất đã giảm việc sử dụng concentrate của chúng tôi trước đó và chúng tôi không vội tích trữ," một giám đốc nhà máy thép tại Hà Nam cho biết.

Giá quặng Trung Quốc đi theo đà tăng giá thép

Giá quặng sắt đường biển hôm thứ Năm đã tăng nhờ giá thép cao hơn.

Chỉ số ICX 62% tăng 4 usd/tấn khô (dmt) lên 93,45 usd/dmt cfr Qingdao. Chỉ số 65% tăng 2,80 usd/dmt lên 109,20 usd/dmt.

Giá thép cuộn cán nóng (HRC) tháng 1 trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tăng vọt 8% lên 4.796 ndt/tấn. Hợp đồng thép cây giao tháng 1  tăng 307 ndt/tấn tương đương 7,42% lên 4.443 ndt.

"Giá thép tăng mạnh đẩy giá quặng sắt tăng trên Sàn giao dịch Hàng hóa Đại Liên (DCE). Giá tăng 6,84% tương đương 36,5 ndt/tấn lên 570,5 ndt/tấn trong ngày," một thương nhân tại Thượng Hải cho biết.

Giá thép tăng do lượng tồn kho của các nhà máy và thương nhân giảm với tốc độ nhanh hơn so với tuần trước. Nhiều nhà máy đang tiến hành các công việc bảo trì, với tỷ suất lợi nhuận đang bị áp lực trong thời gian gần đây.

Thị trường đường biển đã chứng kiến thanh khoản được cải thiện hôm thứ Năm với ba giao dịch được ký kết trên nền tảng giao dịch. Một lô 80.000 tấn Iron Ore Carajas (IOCJ) với vận đơn (B/L) ngày 7 tháng 11 được giao dịch ở mức 109,20 usd/dmt so với 65% trên nền Globalore. Một thương nhân có trụ sở tại Thượng Hải cho biết: “Có biên lợi nhuận dương để mang lô hàng vào cảng. Hàng tồn kho IOCJ tại cảng đã giảm tại các cảng phía Bắc trong tuần qua,” và nói thêm rằng sụt giảm tồn kho có thể đã kích hoạt nhu cầu đối với loại này.

Một lô 188.000 tấn Super Special Fines (SSF) laycan từ ngày 11 đến ngày 20 tháng 12 được giao dịch với mức chênh lệch giá giảm fob là 40,5% so với chỉ số 62% tháng 12 trên nền tảng Corex. Một lô 80.000 tấn Jimblebar Blend Fines (JMBF) laycan ngày 11 đến ngày 20 tháng 12 được giao dịch trên Corex với mức chênh lệch giá giảm là 18,85 usd/dmt so với mức trung bình của hai chỉ số 62% tháng 12.

"Mức chênh lệch giá giảm của SSF không đổi so với thỏa thuận tương tự vào ngày 9 tháng 11, trong khi chênh lệch giá giảm JMBF thu hẹp lại so với thỏa thuận trước đó với mức chênh lệch giá giảm là 19,20 usd/dmt vào ngày 8 tháng 11," một thương nhân có trụ sở tại Bắc Kinh cho biết. Ông nói thêm: “Nhu cầu ch quặng loại trung bình và thấp đã được hỗ trợ khi tỷ suất lợi nhuận thép giảm.”

BHP đã bán một lô 80.000 tấn Newman High Grade Fines (NHGF) laycan ngày 1-10 tháng 12 với mức chênh lệch tăng là 50 cent/dmt so với giá trung bình của hai chỉ số 62% tháng 12. Một lô hàng khác có trọng lượng 80.000 tấn Newman Blend Lump (NBL) laycan ngày 11-20 tháng 12 được giao dịch ở mức chênh lệch tăng là 12,50cent/dmtu fob so với chỉ số 62% tháng 12.

"Chênh lệch tăng của NHGF đã giảm xuống từ 90 cent/dmt vào ngày 8 tháng 11, với quan tâm mua đối với quặng trung bình đường biển vẫn im ắng," một thương nhân ở miền nam Trung Quốc cho biết.

Một giám đốc nhà máy thép có trụ sở tại Hà Bắc cho biết: "Sự sụt giảm đột ngột của chênh lệch giá tăng của lump là do nhu cầu thấp khi các nhà máy đã gần đạt đến giới hạn về tỷ lệ sử dụng lump."

Vale được cho là đã trao thầu bán 70.000 tấn Oman Blast Furnace Pellets (AF80) với laycan từ ngày 11 đến ngày 20 tháng 11, với mức chênh lệch giá tăng 51 usd/dmt so với chỉ số 65% tháng 12 thứ Tư.

Một gói thầu bán 190.000 tấn Concentration Fines Tubarao(CFFT) với vận đơn ngày 6 tháng 11 đã được chốt ở mức 50,40 usd/dmt trên cơ sở 62%. Cả hai giá không thể được xác nhận vào thời điểm viết bài.

Chỉ số quặng fines PCX 62% tại cảng nhích tăng 16 ndt/tấn ướt (wmt) lên 624ndt/wmt free-on-truck Qingdao, với mức tương đương đường biển tăng 2,15 usd/dmt lên 89,10 usd/dmt cfr Qingdao.

Các giao dịch tại cảng tăng lên trong bối cảnh thị trường kỳ hạn sôi động và các nhà giao dịch đã nâng giá chào tại cảng vào buổi chiều thứ Năm. Triển vọng vẫn còn trái chiều. Một số nhà giao dịch đã tích trữ để phòng ngừa rủi ro, làm tăng nhu cầu Super Special Fines (SSF).

Một thương nhân ở Đường Sơn cho biết: “Nhu cầu từ các nhà máy thép cũng tăng lên, khi một số mua ở mức mà họ coi là đáy của thị trường.”

"Một số người bán dự báo rằng đợt tăng giá có thể chỉ diễn ra trong thời gian ngắn," một thương nhân ở phía đông Trung Quốc cho biết.

PBF giao dịch tại 610-615 ndt/wmt tại Đường Sơn và 610-630 ndt/wmt tại các cảng Sơn Đông.

Phế châu Á: Giá phế ở Đài Loan giảm do nhu cầu ở mức thấp

Giá nhập khẩu phế đóng container của Đài Loan giảm do nhu cầu yếu kém và doanh số bán thép thành phẩm chậm đã làm giảm tâm lý thị trường, buộc người bán phải chấp nhận chào giá thấp hơn.

Định giá ngày HMS 1/2 80:20 cfr Đài Loan giảm 5 usd/tấn xuống còn 460 usd/tấn cfr hôm thứ Năm. Giá nhập khẩu của Đài Loan đã giảm 20 usd/tấn từ 480 usd/tấn cfr kể từ đầu tháng 11.

Giao dịch giao ngay hạn chế đã được thông báo chốt ở mức 460 usd/tấn cfr hôm thứ Năm do một số ít người bán chấp nhận giá thầu mua thấp hơn, nhưng hầu hết người mua vẫn tiếp tục trì hoãn vì dự đoán rằng thị trường sẽ giảm thêm.

"Chúng tôi nghe nói rằng một số người bán đã đồng ý bán với giá 460 USD / tấn vào ngày hôm nay. Điều này chứng minh rằng lý thuyết của chúng tôi là đúng, thị trường đang có xu hướng giảm, vì vậy chúng tôi sẽ không đưa ra bất kỳ giá thầu chắc chắn nào," một người mua cho biết.

Người mua thứ hai cho biết sẽ thoải mái hơn khi tham gia lại thị trường nếu giá giảm xuống còn 450 usd/tấn trở xuống.

"Thành thật mà nói, đó là một kịch bản khó khăn, ngay cả khi một người bán đề nghị tôi với giá 450 usd/tấn hôm nay, tôi có thể sẽ thử vận may của mình và nói rằng giá thầu chỉ định của tôi là 440 usd/tấn cfr. Vấn đề là, không có người mua nào sẽ đuổi theo một thị trường đang giảm," ông nói.

Các chào giá ban đầu đã được nghe trong khoảng 460-465 usd/tấn cfr trước đó trong ngày nhưng sau các giao dịch, người bán đã rút lại giá chào của họ với lí do quan tâm trì trệ.

"Chúng tôi hiện không chào giá bất kỳ lô hàng hóa nào. Không có giá thầu chắc chắn nên chúng tôi phải chờ xem," một người bán cho biết.

Những người tham gia thị trường cho biết nhà định giá chuẩn nội địa của Đài Loan Feng Hsin Steel có thể điều chỉnh giá thu mua phế thấp hơn, phù hợp với sự sụt giảm của giá phế đường biển. Như hiện tại, giá thu mua phế nằm trong khoảng 12.700-12.800 đài tệ/tấn, tương đương 456-460 usd/tấn đối với HMS 1/2 80:20 của Mỹ.

"Tôi nghĩ các nhà máy [Đài Loan] cũng đang phải vật lộn với tình trạng bán thép thành phẩm ế ẩm, khó có động lực nào để họ mua [phế] với giá cao. Nếu người bán muốn bán hàng của mình, họ phải sẵn sàng giảm giá, "một thương nhân cho biết.

Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc

Giá chào H2 đến Việt Nam không đổi ở mức 510-520 usd/tấn cfr sáng thứ Năm và giá chào bán shindachi được điều chỉnh xuống khoảng 630 usd/tấn cfr, nhưng người mua vẫn tiếp tục im lặng. Chào giá P&S đóng cntainer ở mức 520 usd/tấn cfr, trong khi giá chào bán phế rời biển sâu vững chắc trên 540 usd/tấn cfr.

Người mua Việt Nam cho biết giá phế đường biển vẫn còn quá cao so với nhu cầu thép thành phẩm yếu kém. Một nhà sản xuất thép Việt Nam cho biết: “Nhiều nhà máy sẽ bắt đầu giảm giá thu mua trong nước ngay khi giá bán của chúng tôi bị áp lực.”

Các thương nhân Nhật Bản từ chối giảm giá chào trước sự phục hồi mạnh mẽ của thị trường thép Trung Quốc hôm thứ Năm.

Một số người tham gia thị trường cho biết sự sụt giảm giá phế sẽ không kéo dài do nguồn cung bị khan hiếm và nói thêm rằng các chủ vựa phế nên tận dụng giá thu mua phế liệu hơn hiện tại. Các nhà xuất khẩu đã cố gắng giảm giá thu mua tại bến khoảng 1.000 yên/tấn (8,80 usd/tấn) tại Vịnh Tokyo hôm thứ Năm và giá H2 giảm xuống còn 53.000-54.500 yên/tấn.

Các nhà máy Hàn Quốc đã giảm giá phế trong nước là 12,70 usd/tấn trong tuần này, chấm dứt xu hướng tăng trong một tháng rưỡi qua. Một nhà sản xuất thép lớn đã tham gia thị trường phế biển sâu và đặt giá mua cho phế A3 của Nga ở mức 515 usd/tấn cfr, thấp hơn 34 usd/tấn so với một thỏa thuận đã ký trước đó cho cùng một loại vật liệu vào cuối tháng 10. Các cuộc đàm phán vẫn đang diễn ra và không có giao dịch nào được xác nhận tại thời điểm viết bài.

Một người mua lớn khác của Hàn Quốc đã giảm giá chào mua phế HS Nhật Bản khoảng 2.000 yên/tấn so với tuần trước xuống còn 65.500 yên/tấn cfr, và được nghe nói là sẽ đảm bảo được một số khối lượng ở mức này.

Giá than cốc châu Á giảm sau các giao dịch fob tháng 12 ở mức thấp hơn

Giá than cốc châu Á - Thái Bình Dương giảm sau khi một giao dịch mới cho lô hàng premium low-volatile bốc dỡ tháng 12 chốt ở mức thấp hơn trong khi nhiều chào giá hơn xuất hiện trong thị trường fob.

Giá than cốcpremium hard coking coal của Úc giảm 4,85 usd/tấn xuống 398,15 usd/tấn fob, trong khi mức giá than loại 2 giảm 3 usd/tấn xuống 336 usd/tấn fob Úc.

Một lô hàng 75.000 tấn than premium low-volatile coal BMA bốc hàng vào giữa tháng 12 đã được bán với giá 399 usd/tấn fob Úc hôm thứ Năm, thấp hơn 5 usd/tấn so với một lô tương tự được giao dịch cách đây hai tuần. Nguồn hàng giao ngay cho tháng 12 có dấu hiệu cải thiện khi các nhà sản xuất và thương mại lớn có một số lô premium mid-volatile hard coking coal để cung cấp, những người tham gia thị trường cho biết.

Một số thương nhân quốc tế cho biết một lô Goonyella bốc hàng tháng 12 đã được chào ở mức 395 usd/tấn fob Úc hôm 11/11 trong khi một giá chào khác của Goonyella được đưa ra với mức chênh lệch tăng 4%  so với chỉ số cơ bản, một số thương nhân quốc tế cho biết.

Nhiều người mua Ấn Độ đã trì hoãn trong khi tìm kiếm sự rõ ràng hơn về hướng đi của thị trường. Có quan tâm mua nhưng những người tham gia thị trường không di chuyển vì họ kỳ vọng giá sẽ giảm hơn nữa, một thương nhân Ấn Độ cho biết. Người bán cũng đang chờ đợi giá thầu chắc chắn trước khi đưa ra chào giá, cho thấy kỳ vọng rằng sẽ có thêm nhiều giao dịch mới xuất hiện với nhu cầu ổn định. Những người khác cũng lặp lại tâm lý tương tự. Một nhà kinh doanh quốc tế cho biết thị trường nội địa Trung Quốc là nguyên nhân khiến giá tăng cao, và khi nó hạ cánh, giá fob cuối cùng cũng sẽ giảm.

Trong khi đó, mưa lớn trên khắp các vùng rộng lớn của Úc, đặc biệt là New South Wales (NSW) và Queensland hiện đang được cảnh báo thời tiết khắc nghiệt. Cục Khí tượng Úc dự báo lượng mưa kỷ lục trên diện rộng ở vùng tây nam Queensland trong hai ngày tới và các vùng của NSW đang trong tình trạng lũ lụt. "Chúng tôi đã thấy mưa bắt đầu ở tất cả các khu vực hoạt động của chúng tôi, 40-50mm mỗi 24 giờ khá thường xuyên vào thời điểm hiện tại," một nhà sản xuất Úc cho biết. “Nó đã gây ra sự chậm trễ mặc dù không lớn, nhưng đã gây phiền toái rồi,” ông nói.

Giá loại 1 sang Trung Quốc giảm 22,15 usd/tấn xuống 500 usd/tấn cfr, trong khi giá loại hai giảm 15 usd/tấn xuống 480 usd/tấn cfr bắc Trung Quốc.

Giá cfr kéo dài đà lỗ khi giá chào bán của Mỹ giảm sau khi không thu hút được sự quan tâm của người mua. Một lô hàng kích cỡ Panamax của than Rustic Ridge của Mỹ bốc hàng từ cuối tháng 11 đến đầu tháng 12 đã được chào bán ở Trung Quốc vào khoảng 491 usd/tấn cfr thứ Năm, giảm 29 usd/tấn so với 520 usd/tấn một ngày trước đó. Một lô  Oak Grove của Mỹ bốc hàng vào tháng 12 đã được chào bán với giá 540 usd/tấn cfr Trung Quốc. Tại thị trường Trung Quốc, giá than trong nước tiếp tục giảm trong bối cảnh nguồn cung các loại than khác nhau tăng lên, bên cạnh khối lượng của Úc.

"Than loại một và lại hai đường biển phải được chào bán thấp hơn mức giá trong nước để hấp dẫn người mua, nếu không, họ có thể chuyển sang mua than của Úc hiện có trong nước, nơi họ có thể chỉ cần mua theo nhu cầu trước mắt," một thương nhân tại Singapore cho biết. Ông nói: “Giá than cốc giảm và biên lợi nhuận thép thu hẹp cũng đã làm suy yếu nhu cầu than cốc.”

Giá than cốc premium hard coking coal  xuất sang Ấn Độ giảm 5,65 usd/tấn xuống 420,35 usd/tấn cfr, trong khi giá loại hai giảm 3 usd/tấn xuống 359 usd/tấn cfr ở bờ  đông Ấn Độ. 

Than cốc luyện kim Trung Quốc suy yếu hơn nữa

Giá than cốc luyện kim của Trung Quốc giảm mạnh do nhu cầu suy yếu trong bối cảnh thị trường thép ế ẩm.

Chỉ số met coke 62 CSR giảm 58 usd/tấn xuống 585,75 usd/tấn fob Trung Quốc, trong khi chỉ số 65 CSR cũng giảm 58,00 usd/tấn, xuống 602,25 usd/tấn fob Trung Quốc. Đề xuất của các nhà máy thép Trung Quốc về đợt giảm giá mua than cốc lần thứ ba là 200 ndt/tấn (31 usd/tấn) đã được các nhà sản xuất chấp nhận hôm 11/11 trong bối cảnh biên lợi nhuận thép ngày càng bị siết chặt. Cho đến nay giá đã giảm tích lũy lên đến 600 ndt/tấn.

Những người tham gia thị trường dự kiến sẽ có hai hoặc ba đợt giảm giá nữa. Hầu hết các nhà máy đang được bảo trì trong tháng này để giảm sản lượng thép, với một số nhà sản xuất thép không còn có lãi, một công ty sản xuất than cốc của Trung Quốc cho biết, với lý do nhu cầu suy yếu. Tâm lý ở những nơi khác trên thị trường cũng tương tự.

Một nguồn tin Trung Quốc cho biết giá than cốc tại cảng giảm do nhu cầu thấp từ các nhà máy trong bối cảnh biên lợi nhuận thép yếu kém. "Triển vọng giá than cốc là giảm, với mức tồn kho than cốc tăng ở Sơn Tây và nhu cầu chậm chạp từ các nhà máy," một nhà kinh doanh khác của Trung Quốc cho biết.

Giá phế Thổ Nhĩ Kỳ ổn định, chào giá ở mức 502-506 usd/tấn cfr

Giá nhập khẩu phế của Thổ Nhĩ Kỳ không đổi thứ Năm do giá vẫn được hỗ trợ và các nhà xuất khẩu nhắm mục tiêu trên 500 usd/tấn đối với premium HMS 1/2 80:20.

Định giá phế HMS 1/2 80:20 cfr Thổ Nhĩ Kỳ hàng ngày không đổi ở mức 498,50 usd/tấn cfr.

Ước tính có khoảng 12-13 chuyến hàng biển sâu sẽ đến Thổ Nhĩ Kỳ giao tháng 12. Một số trong số đó đã được cung cấp dưới hình thức chào bán chính thức hôm 11/11 cho HMS 1/2 80:20 trong phạm vi 502-506 usd/tấn cfr Thổ Nhĩ Kỳ. Hiện các lô hàng của Nga và Baltic chiếm phần lớn trong các đợt chào bán chính thức.

Theo truyền thống, người mua Thổ Nhĩ Kỳ kỳ vọng rằng khi một số chào bán chính thức được đưa ra, họ có thể dễ dàng gây áp lực lên các nhà cung cấp phế để đẩy giá xuống.

Nhưng điều này có vẻ ít xảy ra trên thị trường hiện tại vì nguồn cung phế quá hạn chế để đẩy giá xuống và các nhà cung cấp phế không hoảng sợ để bán. Kỳ vọng giữa các bên tham gia thị trường là giá nhập khẩu phế của Thổ Nhĩ Kỳ sẽ tiếp tục giao dịch trong một biên độ giá hẹp nhất định cho đến hết tháng 11.

Một nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã được cho là đã chào giá 498 usd/tấn cfr thứ Năm cho HMS 1/2 80:20 xuất xứ Hoa Kỳ trong một lô hàng cũng chứa phế vụn, nhưng người bán sau đó đã đưa hàng ra khỏi thị trường xuất khẩu sau khi bán thành phần phế vụn cho người mua nội địa Hoa Kỳ với giá cao hơn nhiều so với mức giá hiện có thể đạt được đối với Thổ Nhĩ Kỳ.

Cả giá thực tế và giá giao sau của Trung Quốc đều tăng trở lại hôm thứ Năm sau khi các nhà máy thép Trung Quốc ở khu vực phía Bắc hôm qua quyết định không bán thép cây thông qua các hợp đồng giao sau trong sáu tháng tới vì giá thép giao sau đã giảm quá thấp so với giá trị thực tế. Nhu cầu thép cây gia tăng hôm 11/11 được hỗ trợ bởi việc các nhà máy Trung Quốc bảo trì lan rộng, lượng hàng tồn kho giảm nhanh hơn dự kiến và môi trường tài chính cho các doanh nghiệp bất động sản cho thấy dễ dàng hơn.

Giá thép cây tại Thượng Hải tăng 120 ndt/tấn lên 4.800 ndt/tấn, sau đà phục hồi giá kỳ hạn. Giá thép cây giao tháng 1 tăng 7.42% 4.446 ndt/tấn trong phiên giao dịch buổi sáng. Giá HRC xuất kho  tại Thượng Hải tăng 150 ndt/tấn lên 4.850 ndt/tấn nhờ sự phục hồi mạnh mẽ của giá giao sau. HRC  tháng 1 tăng 7.98% lên 4.696 ndt/tấn.

Hầu hết các nhà cung cấp phế biển sâu không theo dõi diễn biến hàng ngày trên thị trường thép của Trung Quốc nên sự thay đổi về giá của Trung Quốc ít ảnh hưởng đến kỳ vọng của họ, nhưng các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đang tham gia chặt chẽ hơn nhiều và là lý do chính để họ cố gắng đẩy giá phế xuống trong hia tuần qua là giá thép Trung Quốc giảm mạnh. Giá thép nội địa của Trung Quốc ổn định hơn sẽ khuyến khích nhiều nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu mua lại phế và chốt yêu cầu giao hàng trong tháng 12 của họ.

Định giá hàng ngày của HMS 1/2 80:20 cif Thổ Nhĩ Kỳ (biển ngắn) không đổi ở mức 472,50 usd/tấn thứ Năm.

Nhu cầu tăng trong thị trường thép dài CIS

Nhu cầu tại các thị trường thép dài của CIS đã phục hồi ở hầu hết các khu vực sau khi các nhà cung cấp giảm giá, cạnh tranh với những người bán toàn cầu khác.

Giá fob thép cây và cuộn trơn hàng tuần từ Biển Đen giảm 5 usd/tấn xuống còn 720 usd/tấn và 825 usd/tấn, tương ứng.

Thép cuộn trơn của Nga được giao dịch trong khoảng 810-830 usd/tấn fob cho lô hàng giao tháng 1 tới các nước Mỹ Latinh và Trung Đông vào đầu tháng 11, trong khi ở châu Âu, mức 840-850 usd/tấn fob đã đạt được đối với cuộn trơn dây rút, bằng với giá bán được báo cáo cho nguyên liệu Thổ Nhĩ Kỳ đến cùng các điểm đến.

Nhưng ở Châu Phi, các nhà sản xuất thép cuộn trơn CIS phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ những người bán Châu Á. Các nhà cung cấp Trung Quốc sẵn sàng đàm phán mức 775-790 usd/tấn fob tới các điểm đến ở đó, trong khi giá chào từ Indonesia và Malaysia ở mức 700-720 usd/tấn fob. Các nhà sản xuất CIS sẽ phải giảm giá xuống dưới 800 usd/tấn fob để kích thích bán hàng, một thương nhân cho biết.

Trong khi đó, các chào giá chính thức từ một nhà cung cấp thép Ucraina được ghi nhận vào khoảng 900 usd/tấn fob đối với thép cuộn trơn và 800 usd/tấn fob đối với thép cây. Mức giảm giá 10-20 usd/tấn được cho là có sẵn, nhưng những người mua tiềm năng ở châu Âu tỏ ra ít quan tâm đến nguyên liệu của Ukraine, họ chuyển sang các nhà cung cấp thay thế từ các nước khác. Cụ thể, thép cây của Algeria được mua dưới 825 usd/tấn cfr tại khu vực Benelux, thấp hơn ít nhất 40 usd/tấn so với chào bán của Ukraine trên cơ sở cfr.

Các nhà cung cấp của Nga chỉ tập trung bán thép cây của lô hàng tháng 1 cho các nước châu Âu lân cận, với thị trường nội địa vẫn mạnh. Nhưng những người tham gia thị trường lo ngại chính phủ đang xem xét duy trì thuế xuất khẩu đối với một số sản phẩm thép trong trường hợp giá tiếp tục tăng.

Giá FOB đối với thép cây của Nga sẽ ở mức 720 usd/tấn fob, do đánh giá thép cây hàng ngày của  tại Thổ Nhĩ Kỳ giảm xuống còn 732,50 usd/tấn fob tính theo trọng lượng thực tế hôm 10/11.

Đồng lira yếu hơn khiến chào giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ cao hơn

Đồng lira suy yếu hơn nữa so với đô la Mỹ đã khiến các nhà sản xuất thép cây của Thổ Nhĩ Kỳ chào giá bằng đồng lira cao hơn.

Các ý kiến của những người tích trữ đang phân chia về việc liệu đồng lira sẽ suy yếu hơn nữa hay không và họ có nên mua thêm vật liệu này không, hay liệu đồng lira cuối cùng sẽ mạnh lên và họ nên chờ đợi đến lúc đó để mua thêm hàng.

Một số nhà tích trữ kỳ vọng rằng đồng lira có thể giảm giá hơn TL9,96: 1 USD trong những ngày tới - mức cao nhất mà nó đạt được vào sáng thứ Năm - đó là lý do tại sao dự kiến sẽ có một số nhu cầu tái dự trữ trong nước. Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đang tập trung vào khả năng này và đã tăng các chào giá bằng đồng lira của họ để không phải hy sinh bất kỳ giá trị đô la Mỹ nào. Nhưng đồng lira đã tăng giá so với đô la Mỹ vào buổi chiều, đạt 9,89 TL: 1 USD.

Giá chào bán thép cây trong nước của các nhà máy Istanbul và Izmir ổn định ở mức 748-750 usd/tấn xuất xưởng, chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng (VAT).

Một nhà máy ở Istanbul và Iskenderun từng chào giá 8.800 TL/tấn xuất xưởng, bao gồm VAT, tương đương 750,30 usd/tấn xuất xưởng, chưa bao gồm VAT.

Giá thép cây nội địa Thổ Nhĩ Kỳ hàng tuần tăng thêm TL310/tấn lên 8.740 TL/tấn xuất xưởng, bao gồm VAT, tương đương 745,20 usd/tấn xuất xưởng, chưa bao gồm VAT, tăng 7,90 usd/tấn.

Giá thép kỳ hạn và thực tế của Trung Quốc tăng trở lại hôm 11/11 sau khi các nhà máy thép của Trung Quốc ở khu vực phía Bắc cùng quyết địn hôm 10 tháng 11 không bán thép cây thông qua các hợp đồng giao sau trong sáu tháng tới, vì rằng giá kỳ hạn đã giảm quá thấp so với giá trị thực tế. Ngoài ra, nhiều nhà máy Trung Quốc đang tiến hành bảo trì, trong khi hàng tồn kho giảm nhanh hơn dự kiến và môi trường tài chính thuận lợi dự kiến cho các doanh nghiệp bất động sản đã hỗ trợ nhu cầu thép gia tăng. Giá thép cây tại Thượng Hải tăng 120 ndt/tấn lên 4.800 ndt/tấn, sau khi giá kỳ hạn phục hồi. Giá thép cây giao tháng 1 tăng 7,42% lên 4.446 ndt/tấn trong phiên giao dịch sáng thứ Năm. Giá xuất kho thép cuộn cán nóng (HRC) tại Thượng Hải đã tăng 150 ndt/tấn lên 4.850 ndt/tấn nhờ sự phục hồi mạnh mẽ của giá giao sau. HRC kỳ hạn tháng 1 tăng 7.98% lên 4.696 ndt/tấn.

Giá thép cây hàng ngày Thổ Nhĩ Kỳ không đổi ở mức 732,50 usd/tấn fob trọng lượng thực tế.

Người mua Anh trì hoãn mua HRC

Thị trường thép cuộn cán nóng (HRC) của Anh tuần này khá trầm lắng, người mua không vội đặt trước do lượng dự trữ tăng.

Một nhà chế biến trong nước có 40.000 tấn nguyên liệu, nhiều hơn 25% so với lượng hàng tồn kho thông thường, trong khi các cảng vẫn đầy nguyên liệu, dẫn đến việc một số người có thể phải từ chối tàu một lần nữa.

Một nhà sản xuất trong nước đang chào giá 900 bảng Anh/tấn ddp West Midlands cho S275 giao tháng 1, nhưng dự kiến sẽ ký các giao dịch  gần với mức 860-870 bảng Anh/tấn với những người mua lớn hơn. Một nhà sản xuất HRC và mạ kẽm nhúng nóng của Bỉ đang chào bán ở mức tương tự, nhưng nhận được rất ít sự quan tâm.

Một số trung tâm dịch vụ lo ngại rằng đối thủ cạnh tranh của họ sẽ giảm giá tấm mỏng để tạo ra tiền mặt và hóa đơn thanh toán, điều này có thể dẫn đến tình trạng giảm nhanh giá tấm mỏng.

Các thương nhân cũng đang chuẩn bị cho một cuộc chiến với khách hàng về việc liệu họ có mua thép hay không, do hàng tồn kho cao. Sau khi không thể tiếp cận thép vì các vấn đề về cảng và hậu cần, một số trung tâm dịch vụ dự kiến sẽ hoãn giao hàng do thương nhân mang đến, để hoãn thanh toán và giúp họ quản lý lượng hàng tồn kho của mình. Tata Steel sẽ tiến hành bảo trì dây chuyền cán nóng và cán nguội vào tháng 12, mặc dù việc sản xuất phôi slab sẽ không bị ảnh hưởng.

Định giá HRC hàng tuần của Vương quốc Anh là ổn định ở mức 840 bảng Anh/tấn ddp.

Nhà sản xuất HRC EU chật vật để vận chuyển vật liệu

Giá thép cuộn cán nóng (HRC) của châu Âu hôm thứ Năm vẫn chịu áp lực do các nhà sản xuất vẫn cố gắng bán bớt khối lượng thép ô tô mắc kẹt.

Chỉ số Italy giảm 7,75 euro/tấn xuống 882,25 euro/tấn xuất xưởng, trong khi chỉ số HRC tây bắc EU giảm 6,25 euro/tấn xuống 979 euro/tấn.

Một nhà sản xuất lớn của châu Âu đã chào bán từ một nhà máy ở Đức vào Italy với giá 930-935 euro/tấn đã giao, mặc dù báo giá hợp đồng chính thức vẫn được ghi ở mức 1.080 euro/tấn trở lên. Người mua Italy cho biết đối với các đơn đặt hàng trên 5.000 tấn, 880-890 euro/tấn sẽ có thể được cho giao vào tháng 1. Một nhà máy ở Italy đã được nghe báo giá 900 euro/tấn xuất xưởng, nhưng cũng có thể là 880 euro/tấn. Người mua cho rằng 850-870 euro/tấn xuất xưởng là khả thi.

Giá nhập khẩu vẫn tương đương với người bán trong nước và không thu hút được sự quan tâm. Thổ Nhĩ Kỳ chào bán ở mức 880-900 usd/tấn fob, với cước phí được báo cáo trong khoảng 50-55 usd/tấn, trong trường hợp cạnh tranh nhất sẽ tương đương với 850 euro/tấn cfr Italy đã bao gồm thuế. Tỷ giá hối đoái đồng euro giảm so với đô la Mỹ cũng không làm cho hàng nhập khẩu trở nên hấp dẫn. Nhật Bản báo giá 890 euro/tấn cfr, và chào giá đối với thép cuộn cán nguội (CRC) đã được nghe ở mức 980 euro/tấn cfr. HRC và CRC của Brazil bốc dỡ tháng 1 đã được chào bán đến Antwerp ở mức 910 euro/tấn fca và 1.000 euro/tấn fca.

Một nhà sản xuất Slovakia đã bán khối lượng nhỏ vào Đức với giá 920 euro/tấn đã giao, tăng 45-50 euro/tấn so với các giao dịch gần đây nhất với các nhà phân phối, nhưng vẫn ở mức cạnh tranh. Slovakia sản xuất nhiều ô tô trên đầu người hơn bất kỳ quốc gia nào trên thế giới và sự yếu kém trong lĩnh vực này đã ảnh hưởng đến tiêu thụ thép.

Các khách hàng trong các ngành công nghiệp khác đang nhằm vào thảm họa ô tô và cố gắng giảm giá nhà máy hơn nữa. Nhiều người đang trì hoãn mua cho đến khi các cuộc đàm phán hợp đồng thép ô tô kết thúc. Một số gợi ý rằng sẽ có thỏa thuận trong một hoặc hai tuần tới. Các nhà sản xuất thiết bị gốc đã không vội vàng hoàn tất các giao dịch của họ do sản lượng giảm và giá giao ngay đã chịu áp lực kể từ mùa hè. Một nhà máy lớn ở Bắc Âu đã ký hợp đồng nửa năm với các nhà sản xuất xe hạng nặng ở mức 1.075 euro/tấn tương đương cho các cuộn dây độ bền kéo cao hơn, chẳng hạn như S700.

Trong khi người bán vẫn còn các lô tháng 12 để chuyển đi, rất ít người mua có nhu cầu mua cho dịp cuối năm và cũng không vội đặt trước khối lượng quý đầu tiên do tình hình bi quan đang diễn ra.

Vật liệu được chào ábn từ Serbia với giá 930-940 euro/tấn cfr Danube, theo các nguồn tin bên mua.

Một số trung tâm dịch vụ cho biết doanh số bán hàng bắt đầu tăng lên khi người mua cuối bắt đầu đặt hàng nhiều hơn do tâm lý lạc quan hơn sau sự kiện BlechExpo ở Đức.

Nhưng vẫn còn một lượng hàng đáng kể hiện có tại các cảng và nhà kho, với việc một số trung tâm dịch vụ phải thuê không gian lưu trữ bên ngoài sau khi hàng đến tăng lên. Và các trung tâm dịch vụ thường bán vào lĩnh vực ô tô đã cạnh tranh trong phân khúc công nghiệp nói chung do lượng tiêu thụ trên thị trường chính của họ giảm, điều này phần nào gây áp lực lên giá thép tấm mỏng.

Công ty dẫn đầu thị trường ArcelorMittal cho biết các lô hàng thép dẹt tại châu Âu đã giảm xuống còn 5,3 triệu tấn trong tháng 7-9, mức thấp nhất kể từ tháng 4 đến tháng 6 năm ngoái, khi đại dịch Covid-19 tàn phá sản xuất công nghiệp. Trong khi lượng giao hàng giảm, sản lượng thép thô chỉ giảm nhẹ một chút, trong khi khối lượng nhập khẩu ngày càng tăng.

Sự không chắc chắn vẫn duy trì trong thị trường phôi CIS

Thị trường phôi CIS hôm suy yếu do các nhà cung cấp sẵn sàng giảm giá trong bối cảnh tình trạng yếu kém kéo dài ở hầu hết các điểm đến. Định giá phôi Biển Đen hàng ngày đã nhích giảm 5usd/tấn, xuống 620 usd/tấn fob hôm 11/11.

Tại Trung Quốc, giá phôi tăng nhẹ nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với kỳ vọng của người bán. Hầu hết người mua vẫn bị sốc bởi sự biến động ở Trung Quốc trong hai tuần qua và muốn đợi cho đến khi có dấu hiệu ổn định rõ ràng, một thương nhân châu Á cho biết.

Nhưng hôm thứ Năm các nhà giao dịch đã rút các chào bán giá rẻ ra khỏi thị trường, khi cách đây vài ngày, các chào giá 630-640 usd/tấn cfr đã có sẵn cho hầu hết các nước Đông Nam Á. Một thỏa thuận đã được thực hiện ở mức thấp nhất của phạm giá đến Indonesia, nhưng không thể xác minh.

Thị trường Philippines mạnh hơn nhiều, với mức khả thi lên tới 650-670 usd/tấn cfr tùy thuộc vào nhà cung cấp, với mức thấp nhất của phạm vi giá được chỉ định cho vật liệu có xuất xứ từ Nga. Các nhà máy ASEAN đang chào bán phôi ở mức 675 usd/tấn cfr trở lên.

Một nhà sản xuất Nga đã đàm phán mức 595-600 usd/tấn fob từ một cảng xa phía đông của Nga cho lô hàng vào tháng 1, với một thỏa thuận có thể sẽ được hoàn tất trong những ngày tới. Một nhà sản xuất khác đã không tham gia thị trường, nhưng được cho là đã nhận được giá thầu mua không cao hơn 610 usd/tấn fob vào đầu tuần này.

Chào giá từ khu vực Biển Đen được báo cáo là 630-650 usd/tấn fob hôm 11/11, với các giá trị có thể giao dịch được cho là không cao hơn 620 usd/tấn fob. Trong khi đó, mức 610 usd/tấn fob trở xuống được cho là có thể đạt được đối với việc bán khối lượng lớn vào Đông Nam Á hoặc các điểm đến khác. Nhưng với giá của các nhà cung cấp trong khu vực tại thị trường này, mức giá này là không thể chấp nhận được.

Một số nhu cầu đối với phôi CIS dự kiến sẽ xuất hiện ở châu Âu, nơi giá thành phẩm tiếp tục tăng, trong khi người mua châu Mỹ Latinh và châu Phi đang theo dõi diễn biến ở châu Á và Thổ Nhĩ Kỳ. Hầu hết các thương nhân chào giá đến Bắc Phi đã không nhận thấy bất kỳ quan tâm nào từ các nhà cán lại trong một vài tuần.

Tại Trung Đông, một số nhà sản xuất phôi trong khu vực đang báo giá phôi ở mức 640-650 usd/tấn xuất xưởng, trong khi các nhà sản xuất hàng đầu của GCC đưa ra mức giá xuất xưởng 660 usd/tấn, phản ánh cơ hội bán cho khu vực này rất hạn chế.

Người mua phôi slab của CIS chờ đợi sự ổn định ở Trung Quốc

Tâm lý đối với thị trường phôi slab CIS vẫn không chắc chắn với người mua, đặc biệt là ở châu Á, đang chờ đợi sự ổn định ở thị trường thép Trung Quốc.

Đánh giá tuần của phôi slab CIS giảm 5 usd/tấn xuống còn 705 usd/tấn fob Biển Đen.

Hai nhà máy, một ở Indonesia và một ở Malaysia, đã chào bán phôi slab ở mức 685-690 usd/tấn cfr, nhưng không thành công vì người mua dường như đang trong tình trạng hoảng sợ trước những phát triển gần đây của thép ở Trung Quốc. Điều này xảy ra kể từ khi các nhà máy Trung Quốc giảm giá trong bối cảnh nhu cầu giảm, cho đến khi thị trường phục hồi vào ngày 11 tháng 11.

Trong khi đó, một thương nhân đã nghe được chào giá ở mức 750 usd/tấn cfr Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng cho biết mức khả thi rất có thể sẽ thấp hơn. Tâm lý đối với HRC của Thổ Nhĩ Kỳ cũng đã giảm sau khi người bán Trung Quốc chào bán lượng nhập khẩu lớn với giá cạnh tranh, nhưng giá vẫn ở mức trên 900 usd/tấn xuất xưởng, có nghĩa là giá phôi slab có thể phù hợp với túi tiền của nhà cán lại.

Tại châu Mỹ, nhu cầu về slab vẫn còn, nhưng người mua muốn thảo luận về giá cả. Các cuộc đàm phán về slab của Brazil đã được báo cáo với Mexico ở mức 720 usd/tấn fob và có khả năng với Mỹ ở mức 740 usd/tấn fob. Khách hàng dự kiến sẽ tiếp tục mua nếu giá ở Trung Quốc sớm bắt đầu tăng, nhưng giá CIS vẫn không cạnh tranh đối với họ.

Tâm lý đối thị trường thép tấm của Italy đã được cải thiện trong bối cảnh làn sóng tái tích trữ đáng kể trong suốt cuối tháng 10 ở Italy. Các nhà máy ở đó có thể đạt được mức cao hơn ở mức 830-850 euro/tấn xuất xưởng đối với tấm phân loại S235JR/S275JR với các nhà dự trữ, với mức lên đến 900 euro/tấn xuất xưởng cho người dùng cuối và người mua nhỏ.

Giá gang thỏi đi ngang với các hoạt động giao dịch mới

Giá gang thỏi cơ bản đường biển (BPI) đối với nguyên liệu có nguồn gốc CIS đã tăng cao hơn trong tuần qua, thúc đẩy bởi doanh số bán hàng mới sang châu Âu và Mỹ, trong khi giá trị của nguyên liệu phốt pho cao có xuất xứ từ Brazil vẫn ổn định cũng với các giao dịch mới sang Mỹ. Sự chuyển động của giá xảy ra trong bối cảnh các kỳ vọng nói chung là khác nhau.

CIS, Châu Âu

Định giá fob hàng tuần  Biển Đen đối với BPI của Nga và Ukraina cao hơn 5 usd/tấn trong tuần ở mức 520 usd/tấn hôm thứ Năm, được củng cố bởi giao dịch bán giao ngay được thực hiện và các chỉ báo bên mua và bên bán.

Một nhà xuất khẩu Ukraine đã ký kết nhiều giao dịch với các thương nhân ở Italy vào cuối tuần trước - đầu tuần này với mức giá chung là 585 usd/tấn cfr, được hỗ trợ phần lớn bởi kích thước lô nhỏ gồm hai lô hàng 5.000 tấn và một là 10.000 tấn - và giao hàng nhanh - tất cả các chuyến hàng được lên lịch vào đầu tháng 12.

Những người tham gia thị trường cho biết, nguồn cung nguyên liệu thô thắt chặt hơn đã tạo thêm một số hỗ trợ, lưu ý rằng tất cả các giao dịch mua gần đây của người mua cuối và thương nhân Italy có thể đáp ứng các yêu cầu của họ trong ngắn hạn, có nghĩa là nhu cầu trong nước có thể sẽ giảm cho đến khi kết thúc quý này.

Vì người bán thường sử dụng các tàu hạng nặng để vận chuyển hàng hóa đến Italy, các nhà giao dịch ước tính giá cước vận chuyển cho các lô hàng từ Biển Đen đến các cảng của Italy trung bình vào khoảng 40 usd/tấn tại thời điểm giao dịch, do đó, giá thỏa thuận tương đương khoảng 55 usd/tấn fob.

Sau các giao dịch đó với Italy, một số nhà sản xuất CIS bắt đầu tìm kiếm mức 580-585 usd/tấn cfr Thổ Nhĩ Kỳ, tương đương khoảng 545–550 usd/tấn fob Biển Đen, nhưng không thành công vì khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ được cho là sẵn sàng trả không cao hơn 515- 525 usd/tấn fob đối với hàng giao nhanh và thấp hơn ít nhất 10 usd/tấn đối với hàng giao ngay. Và nhu cầu ở Thổ Nhĩ Kỳ khá yếu do giá nhập khẩu phế  vẫn dưới 500 usd/tấn trong hai tuần qua.

Mỹ, Brazil

Trong khi đó, một nhà sản xuất Nga đã bán hai lô hàng 50.000 tấn cho một nhà sản xuất thép của Mỹ vào giữa tuần trước, với một lô hàng cho tháng 12 với giá 568 usd/tấn cfr Nola và một lô hàng khác cho tháng 1 với giá 580 usd/tấn cfr. Với giá cước giảm trong tuần qua và các chuyến hàng dự kiến sẽ được thực hiện từ các cảng Baltic, giá fob Biển Đen tương đương khoảng 518 usd/tấn và 530 usd/tấn.

Các giao dịch không hoàn toàn được xác thực, nhưng cả hai mức giá đều được những người tham gia thị trường nhận định là quá cao và có khả năng được thỏa thuận với một số điều kiện đặc biệt hoặc trên cơ sở công thức.

"Có lẽ, người bán hứa sẽ giảm giá nguồn cung vào năm tới vì hiện tại, họ có thể cần gấp để duy trì thanh khoản vào cuối năm nay, do chịu áp lực từ thuế xuất khẩu gang thỏi cao. Và giá có thể dựa trên một số công thức. Dù sao, đó chắc chắn không phải là chỉ báo thị trường giao ngay," một số thương nhân nói  một cách khá đồng tình.

Điểm này đã được minh oan một cách gián tiếp bằng hai đơn đặt hàng 50.000 tấn được thực hiện bởi cùng một người mua vào cùng thời điểm ở Brazil với giá 550 usd/tấn cfr Nola cho lô hàng tháng 1. Giá thỏa thuận tương đương 500 usd/tấn fob Rio de Janeiro.

Do đã bán hết vào giữa và cuối tháng 1, các nhà sản xuất gang thỏi của Brazil đã bắt đầu chào bán thưa thớt các lô hàng tháng 2 ở mức khoảng 510 usd/tấn fob, mặc dù họ không vội bán và tăng giá. Không giống như những người bán hàng ở CIS, họ nhìn thấy cơ hội được đo lường trong những cuộc mặc cả của Nga/Mỹ để đặt ra giá cao hơn. Một số người cho biết giá FOB Biển Đen có thể chấp nhận được hiện là 540 usd/tấn.

Nhưng các nhà giao dịch không đón nhận sự lạc quan của người bán, họ mong đợi mọi thứ sẽ trở nên nhẹ nhàng hơn vào tháng 12 và quý đầu tiên của năm vì một số lý do.

Đặc biệt, trong khi các nhà sản xuất viện lý do hạn chế về nguồn cung cấp gang thỏi để giao dịch, thì khách hàng ở Mỹ - một thị trường sôi động quan trọng hiện nay - được hiểu là đang được bao phủ khá tốt, với lượng dự trữ trong tay đủ để giảm giá trong một thời gian. Sự hiện diện tích cực hơn của những người bán Nga vào tháng 1, sau khi thuế xuất khẩu hiện tại hết hạn, có thể gây thêm một số áp lực lên thị trường cũng như làm giảm chỉ số BPI ở Trung Quốc.

"[Ai đó ở bên] bán có thể đề cập đến xu hướng tăng trên thị trường phế liệu của Hoa Kỳ trong tháng 11. Nhưng [lập luận] bên mua [sẽ là] "hãy nhìn vào giá quặng sắt, nó đang [giảm], và điều này có ý nghĩa," một người tham gia thị trường nói. Thật vậy, giá quặng sắt tại cảng và đường biển ở Trung Quốc gần đây đã giảm, đi theo đà giảm của thép, với việc các nhà máy địa phương tiến hành các công việc bảo dưỡng trong bối cảnh tỷ suất lợi nhuận thu hẹp.

Định giá BPI fob miền nam Brazil hàng tuần đi ngang vào tuần trước ở mức 500–510 usd/tấn fob, với định giá BPI fob miền bắc Brazil dao động ở mức 505–515 usd/tấn, không thay đổi trong tuần. Định giá cfr Nola BPI hàng tuần ở mức 550–560 usd/tấn cfr hôm nay, ổn định trong tuần thứ ba liên tiếp.

Trung Quốc, Ấn Độ

Các yêu cầu của Trung Quốc - chưa phải là giá thầu mua vững chắc - đã tái xuất hiện trên thị trường gang thỏi ở nước ngoài trong tuần này, với ý tưởng giá chung là từ 520-540 usd/tấn cfr. Người bán cho rằng những con số này khá thấp, do giá cước vận chuyển từ Biển Đen đến Trung Quốc thậm chí còn giảm nhẹ ở mức 65–70usd/tấn và từ Brazil không thấp hơn 60 usd/tấn.

Tuần trước, một lô hàng 5.000 tấn BPI đã được một nhà xuất khẩu của Nga bán cho Trung Quốc từ một trong những cảng viễn đông của Nga với giá 540–550 usd/tấn cfr, với mức giá cũng được hỗ trợ bởi lô hàng nhỏ và giao hàng nhanh. Một lô hàng khác 10.000 tấn, nhưng là gang đúc, đã được giao dịch từ vùng viễn đông của Nga sang Hàn Quốc với giá 590 usd/cfr. Không có thêm chi tiết nào xuất hiện cho đến nay.

 

Với tâm lý chung không mấy thuận lợi tại thị trường Châu Á - Thái Bình Dương, mức chào bán BPI của Ấn Độ ở mức khoảng 540 usd/tấn fob đã không thể tạo ra bất kỳ phản ứng nào từ người mua ở đó. Một báo cáo bán nguyên liệu của Ấn Độ cho Thổ Nhĩ Kỳ vào tuần trước không thể được xác thực, không có thông tin chi tiết nào được đưa ra.