Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 12/01/2017

Giá ống hàn châu Âu tăng do thép cuộn cao hơn, triển vọng

Những nhà sản xuất ống hàn châu Âu chốt giá chào bán thành công trong tháng cuối cùng của năm 2016 và đang cân nhắcđợt tăng mới do xu hướng đi lên của giá thép cuộn, nguồn tin thị trường cho hay.
Ngoài ra, vào đầu năm nay hầu hết các nhà máy ban hành bảng giá mới trong bối cảnh các nguyên liệu đắt tiền hơn. Marcegaglia, một trong những nhà lãnh đạo trong thị trường, là người đầu tiên công bố giá mới vào giữa tháng 12 mặc dù nó đang có hiệu lực trong tháng này.
"PADANA Tubi, Sideralba, Tecnotubi, tất cả các nhà sản xuất ống hàn chính Italia đã ban hành bảng giá mới. Có một số khác biệt nhỏ giữa chúng ... nhưng nguyên tắc chính là như nhau: sự gia tăng trong giá cơ sở để phản ánh các điều kiện thị trường mới của thép cuộn đắt tiền ", một nguồn tin có trụ sở tại Italy nhận xét.
Trên cơ sở tháng giá ống hàn đã tăng 30-40 euro/tấn lên mức khoảng 16-14 điểm cơ bản của giảm giá (dựa trên bảng giá cũ của Marcegaglia).
Về nhu cầu tiêu thụ, nhà sản xuất và người mua xác nhận nó khá tốt, bởi vì " trong tháng Mười-tháng Mười Một rất nhiều người mua không tin rằng giá có thể đi lên cao hơn vì vậy hầu hết các nhà tích trữ đã không mua quá nhiều ... bây giờ tâm lý chờ đợi và xem xét đã thay đổ," nguồn tin khẳng định. "Giá tại thời điểm này là ổn định nhưng chúng tôi đang dự đoán thông báo tăng giá mới," một nguồn tin từ một nhà tích trữ có trụ sở tại Hà Lan nói.

Nucor, Gerdau tăng giá thanh thương phẩm 25usd/t ở Mỹ

Nucor và Gerdau Long Steel North America đã tăng giá niêm yết cho hầu hết thanh thương phẩm và thép hình 25usd/st (1.25usd/cwt), hiệu lực với các đơn đặt hàng mới thứ Tư, 2 công ty cho biết trong thư đến khách hàng.
Tất cả các đơn đặt hàng đã được xác nhận trong ngày kinh doanh thứ Ba sẽ duy trì giá cũ nếu vận chuyển trước ngày 01/02, cả hai nhà máy cho biết.
Mức tăng này sẽ kéo giá niêm yết thép góc 2x2x1/4lên mức 656usd/st (32,80usd/cwt), tăng từ mức giá niêm yết trước đó là 631usd/st, được thiết lậ[ vào tháng 12 khi các nhà máy Mỹ tăng giá thanh thương phẩm thêm 30usd/st.

USD tăng mạnh tác động lên hoạt động thương mại trong thị trường HRC Thổ Nhĩ Kỳ

Do sự sụt giảm nhanh chóng của đồng lira làm giá tăng bất ổn, hoạt động thương mại ở thị trường tấm mỏng Thổ Nhĩ Kỳ đã chậm lại đáng kể trong tuần này. Hầu hết người mua tấm mỏng Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục tỏ ra rất nhỏ thận trọng và chỉ mua phù hợp với nhu cầu trước mắt, nguồn tin thị trường cho biết hôm thứ Tư.
"Cả thời tiết và sự mất giá mạnh của đồng lira Thổ Nhĩ Kỳ gần như đóng băng các hoạt động thương mại ở thị trường trong tuần này," tổng giám đốc một trung tâm dịch vụ ở khu vực Marmara nói. "Bất ổn chính trị và kinh tế đang ngăn chặn sự hồi phục trên thị trường. Vì vậy, chúng tôi đã hoãn đặt mua trong nước và nhập khẩu trong điều kiện thị trường này, mặc dù tồn kho của chúng tôi thấp", ông lưu ý.
Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ, trong khi đó, đang tập trung nhiều hơn vào xuất khẩu trong điều kiện thị trường như hiện nay, do một số dấu hiệu phục hồi đã bắt đầu được nhìn thấy trong các thị trường xuất khẩu HRC chính của Thổ Nhĩ Kỳ trong tuần này, sau những ngày nghỉ lễ, các nguồn tin ghi nhận. Xuất khẩu HRC Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng đáng kể và đạt 2 triệu tấn trong năm ngoái, theo Hiệp hội Nhà xuất khẩu thép Thổ Nhĩ Kỳ CIB
Chào giá HRC của nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ cho thị trường trong nước nói chung trong khoảng 540-550usd/tấn cho hàng sản xuất cuối tháng 02/tháng 03, trong khi chào giá xuất khẩu thấp hơn khoảng 10usd/tấn, với mức giảm giá có sẵn cho đặt mua khối lượng khá lớn, nguồn tin cho biết .
Trong khi đó, không có hoạt động thương mai nhập khẩu đáng kể nào được nghe nói tại Thổ Nhĩ Kỳ trong suốt tuần, trong bối cảnh biến động tỷ giá mạnh mẽ, nhưng chào giá HRC mới nhất mà một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ nhận được từ Ukraina ở mức 505usd/tấn CFR.

Định giá HRC EU

Platts duy trì định giá thép cuộn cán nóng phía bắc châu Âu ở mức 560-565 euro/tấn xuất xưởng Ruhr thứ Tư.
Thị trường hiện nay đã trở lại sau kỳ nghỉ lễ, đang cân nhắc xu hướng giá cho đặt mua trong Q2. Trong khi các nhà sản xuất được cho sẽ ổn định chào giá, người mua cho rằng bất kỳ sự tăng giá trong tương lai sẽ rất khó để đạt được.
Hầu hết các nhà máy của EU đã có đủ đặt hàng Q1, nhưng chào giá đã được nghe nói ở mức cao 595 euro/tấn xuất xưởng. Các nhà máy khác chào giá trong phạm vi 565-575 euro/tấn. Một nhà máy Đông Âu đã nghe nói chào giá 560 euro/tấn cho công suất Q1 còn lại.

Định giá thép cây FOB Thổ Nhĩ Kỳ

Platts định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 425usd/tấn FOB hôm thứ Tư, không đổi trong ngày.
Một nhà sản xuất tại Thổ Nhĩ Kỳ cho biết chào giá duy trì ở mức 430usd/tấn FOB Marmara với mức thấp hơn một chút có thể có trong giá đặt mua thực tế. Một thương nhân nói thêm rằng đã có tin đồn về việc chào giá ở mức 415usd/tấn FOB nhưng chưa được xác nhận. Giá giảm hơn nữa nhìn nhiều khả năng là do việc đồng lira tiếp tục mất giá và một số suy yếu trên thị trường phế.
Không có hoạt động nào khác được ghi nhận bởi nguồn tin thị trường, người đã ghi nhận rằng hoạt động giao dịch vẫn chậm do nhu cầu tiêu thụ ở mức thấp.

Phôi thanh CIS thu hút một vài người mua nhưng Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục chờ đợi

Những thông tin đầu tiên về các đặt mua phôi thanh Biển Đen chốt bởi các nhà máy CIS tuần này cho thấy rằng giá chống lại áp lực đi xuống nhờ vào sự hỗ trợ của một vào doanh số bán trong khu vực Địa Trung Hải. Chào giá vẫn chưa được thử nghiệm bởi những người mua ở Thổ Nhĩ Kỳ, các nguồn tin nhận xét.
Hai lồ hàng hoá sản xuất tháng Hai được bán từ Nga, một lô 10.000 tấn đến Syria, 5.000 tấn khác đến Bắc Phi, cả hai đều chốt ở mức 400usd/tấn FOB Novorossiysk, hai nhà quan sát thị trường cho biết. Gái chào đặt ra từ đầu tuần này ban đầu được chốt ở mức 405usd/tấn FOB mức. Do đó, giá thỏa thuận thực cho một mức giảm nhẹ từ giá chào bán, cách xa kỳ vọng giá 380-385usd/tấn FOB của một số người mua ở Thổ Nhĩ Kỳ.

Chào giá thấp nhất đã được báo cáo từ một nhà máy mini Ukraine, 390usd/tấn FOB Mariupol. Mức thấp hơn này so với các nhà máy khác đã được giải thích bởi các rủi ro liên quan đến nguy cơ băng giá ở Biển Azov trong vài tuần tới. "Tôi cần giá dưới 380usd/tấn FOB Mariupol để mua," một thương nhân lưu ý.
Cho đến nay chào giá phôi thanh CIS vẫn không có lực hút đối với thị trường Thổ Nhĩ Kỳ, nơi mà phô thanh địa phương đang được báo giá 405usd/tấn xuất xưởng. "Tôi tin rằng người mua có thể mua ở mức 400usd/tấn FOB với một giá mua ổn định," một thương nhân cho biết. "Khi giá than luyện cốc đang đi xuống không có lý do gì để phải vội vàng," một nhà cán lại nhận xét. Giá chốt mua phế suy yếu và đồng lira Thổ Nhĩ Kỳ giảm mạnh đ1ong vai trò kháng cự lại hoạt động thu mua phôi thanh đắt tiền từ CIS.
Tại khu vực Iskenderun, phôi thanh của Iran đã được báo giá bởi các thương nhân ở mức 390usd/tấn CFR, dường như đang cạnh tranh với lựa chọn thay thế CIS. "Tôi chắc chắn rằng những người mua Iskenderun sẽ chào giá tối đa 375usd/tấn CFR," một người quan sát thị trường địa phương ước tính.
Các nhà máy của Nga và Ukraine có thể duy trì chiến lược giá trong một thời gian trong khi cố gắng để có được giá cao hơn bên ngoài của Thổ Nhĩ Kỳ với một số nhượng bộ cho các khách hàng của Thổ Nhĩ Kỳ có thể có sau đó, một thương nhân người Ukraine nói.
Hôm thứ Tư, Platts định giá phôi thanh hàng ngày là 400usd/tấn FOB Biển Đen, tăng 5usd/tấn trong ngày.

Định giá phôi thanh CIS

Platts định giá xuất khẩu phôi thanh CIS hàng ngày ở mức 400usd/tấn FOB Biển Đen thứ Tư, tăng 5usd/tấn, từ thứ Ba.
Hai lô hàng từ sản xuất tháng Hai đã được bán từ Nga, một lô hàng 10.000 tấn đến Syria, 5.000 tấn khác đến Bắc Phi, cả hai đều chốt ở mức 400usd/tấn FOB Novorossiysk, hai nhà quan sát thị trường cho biết.
Chào giá được duy trì trong khoảng 400-405usd/tấn FOB Biển Đen. Một nhà sản xuất Ukraina chào giá thấp nhất 390usd/tấn FOB Mariupol, với sự chênh lệch được giải thích bởi các rủi ro liên quan đến hàng hải ở Biển Azov trong các điều kiện thời tiết băng có khả năng xuất hiện trong tuần tới.

Tấm mỏng Mỹ bắt đầu xu hướng đi lên với đợt tăng giá mới nhất

Thị trường tấm mỏng Mỹ hôm thứ Tư tiếp tục hấp thụ đợt tăng giá mới nhất của nhà máy với hầu hết các dự đoán cho rằng giá giao dịch sẽ tăng lên để đáp ứng với giá yêu cầu của nhà máy.
Dựa trên phản hồi của thị trường, Platts nâng định giá thép cuộn cán nóng hàng ngày thứ Tư tới 600-620usd/st, tăng từ mức 595-605usd/st. Định giá thép cuộn cán nguội vẫn không thay đổi ở mức 810-830usd/st. Cả hai định giá này theo cơ sở giá xuất xưởng Midwest (Indiana).
Một người mua đã đặt một đơn hàng nhỏ cho CRC ở mức 840usd/st giao tháng Ba. Với đợt tăng giá mới nhất, nhà sản xuất đang nhắm mục tiêu giá giao ngay 850- 860usd/st cho CRC và HDG và 640usd/st cho HRC.
Một nguồn tin nhà máy cho biết ông nhìn thấy giá CRC ở mức 840usd/st và giá HDG tại 840-860usd/st. Ông rất ngạc nhiên khi Nucor và ArcelorMittal USA chỉ tăng CRC và HDG thêm 30usd/st trong khi các nhà máy khác đã nâng giá 40usd/st vì mức tăng này có lí do chinh đáng với giá phế tăng lên.
Trong tương lai, nguồn tin nhà máy cho biết sẽ "chắc chắn" có nhiều thông báo tăng giá hơn nữa, “nhưng tôi không nghĩ rằng họ sẽ có thể ràng buộc nó với phế," ông nói.
Một nguồn tin nhà máy khác cho biết ông thấy xu hướng giá tấm mỏng sẽ tạm dừng, "đặc biệt là nếu phế giữ nguyên," ông nói. Nếu thị trường di chuyển cao hơn nhiều, ông nói nó có nguy cơ bị mất cân bằng với giá thế giới.
Sự chênh lệch giữa giá HRC và HDG vẫn là 210-220usd/st, nguồn tin nhà máy cho biết và nói thêm rằng phụ phí kẽm phí có thể cần phải tiếp tục tăng.
Một nguồn tin trung tâm dịch vụ cho biết ông thấy giá HRC đạt đỉnh 640usd/st. Một nhà phân phối khác cho biết ông không chắc nếu giá giao dịch đã tăng vượt quá 600usd/st cho HRC và 820 usd/sr cho CRC chưa, nhưng ông tin rằng các nhà máy đang làm việc để tăng giá HRC nhằm thu hẹp lại chênh lệch HRC/CRC.

SSAB, ArcelorMittal thông báo tăng giá thép tấm 40usd/st ở Mỹ

SSAB Americas và ArcelorMittal USA đã thông báo đến khách hàng vào thứ Tư sẽ nâng giá thép tấm 40usd/st. Động thái này diễn ra sau thông báo tăng 40usd/st của Nucor vào tối thứ Ba.
Mức tăng của SSAB có hiệu lực ngay lập tức và được áp dụng cho tất cả mặt hàng thép tấm đã cán, tấm rời và cuộn cán nóng khổ rộng hơn 72 inch, cũng như tấm bình thường và đã tôi.
Thông báo tăng giá của Nucor, SSAB và ArcelorMittal là một phần của đợt tăng thứ năm của giá thép tấm Mỹ kể từ tháng 11/2016, với tổng mức tăng lên tới 230usd/st.

Nucor tăng giá thép cây thêm 40usd/st

Nucor sẽ nâng giá thép cây 40usd/st có hiệu lực với các đơn đặt hàng mới từ thứ Tư, công ty này cho biết trong một lá thư gửi cho khách hàng.
Tất cả các đơn đặt hàng được xác nhận trong ngày làm việc thứ Ba sẽ có giá cũ nếu vận chuyển trước nagy2 01/02, công ty cho biết.Trong một loạt các thông báo trong tuần này Commercial Metals Co., Gerdau Long Steel North America và Steel Dynamics Inc. trước đó cho biết sẽ nâng giá thép cây 40usd/st, hiệu lực với các đơn đặt hàng mới. Mức tăng của Gerdau và CMC đã có hiệu lực hôm thứ ba, trong khi SDI cho biếtthông báo tăng sẽ có hiệu lực với các đơn đặt hàng mới thứ Tư.
Nucor đã không tiết lộ lý do tăng giá trong thư gửi cho khách hàng, nhưng CMC, đã gửi một lá thư đến khách hàng tối thứ Hai, cho biết tăng giá là do chi phí đầu vào tăng. Trong tuần mua tháng Một, giá phế vụn của Mỹ chốt tăng 30-40usd/lt so với giá tháng Mười Hai, tùy khu vực.
Nếu được thị trường chấp nhận, đợt tăng này sẽ đánh dấu lần thứ tư của giá thép cây trong nhiều tháng. Các nhà sản xuất của Mỹ trước đó đã nâng giá thép cây 25usd/st trong tháng Mười Hai, 30usd/st trong tháng Mười Một, và 20usd/st trong tháng Mười.

Keystone tăng giá cuộn trơn 45usd/st ở Mỹ

Keystone Steel & Wire sẽ nâng giá cuộn trơn 45usd/st, có hiệu lực với hàng giao 01/02, nhà sản xuất thép của Mỹ này cho biết trong thư gửi cho khách hàng trong tuần này.
Thông báo tăng của Keystone tương tự th6ong báo tăng giá trước đó của Nucor và Gerdau Long Steel North America tăng giá thép 45usd/st cho hàng giao tháng 02.
Đợt tăng giá cuộ trơn này, đánh dấu lần tăng thứ ba của các nhà sản xuất trong nước đã công bố trong nhiều tháng, sau khi chi phí nguyên vật liệu thô tháng 01 cao hơn, như giá trung bình của phế vụn Mỹ chốt tăng 30-40usd/lt so với tháng 12.
Các nhà máy của Mỹ trước đó công bố tăng 45usd/st trong giá cuộn trơn trong tháng 12, diễn ra sau một đợt tăng 40usd/st công bố vào tháng 11.

Hyundai Steel tạm dừng nhà máy thép hình Pohang để bảo trì

Hyundai Steel sẽ bắt đầu bảo trì định kỳ cho 2 nhà máy thép hình dày và trung bình nằm tại Pohang từ cuối tháng 1. Hai nhà máy này có tổng công suất khoảng 1,4 triệu tấn/năm.
Công tác bảo trì sẽ bắt đầu từ ngày 31/1 và mất khoảng 10 ngày, mặc dù việc sẽ ngừng sản xuất trong khoảng 14 ngày vì nhà máy sẽ ngưng các dây chuyền bắt đầu từ khi Tết Nguyên đán kéo dài tới 27-30/1.
Công ty từ chối bình luận về khối lượng thép hình hiện nay đang nằm trong kho Pohang, nhất là thép dầm hình H. Tuy nhiên, tờ Steeldaily đưa tin tồn kho thép dầm hình H hiện nay của Hyundai vào khoảng 90.000 tấn, thấp hơn nhiều so với mức thông thường (tầm 12.000 tấn).
Trong khi đại diện công ty từ chối tiết lộ mức sản lượng bị mất trên thực tế do bảo trì thì Steeldaily cũng ước tính con số này là khoảng 40.000 tấn.
Trong khi đó, nguồn cung trong nước hạn chế đã dẫn tới giá phân phối cho thép dầm hình H hiện nay chạm mức 750.000-760.000 Won/tấn (626-635 USD/tấn), từ khoảng 660.000-670.000 Won/tấn (551-560 USD/tấn) hồi cuối tháng 10.

Các nhà máy Nhật Bản nâng giá thép không gỉ trong nước

Nippon Steel & Sumikin Stainless đã quyết định tăng giá niêm yết trong nước cho CRC và thép tấm austenitic lên 15.000 Yên/tấn (129 USD/tấn) đối với những hợp đồng tháng 1 và 5.000 Yên/tấn cho CRC ferritic.
Như vậy tổng mức tăng qua các lần điều chỉnh kể từ tháng 8 cho giá CRC và thép tấm austenitic của NSSC lên đến 40.000 Yên/tấn, và 35.000 Yên/tấn cho CRC ferritic từ tháng 9.
NSSC không bao giờ tiết lộ giá niêm yết của mình nhưng giá thị trường hiện nay cho CRS loại 304 dày 2mm tại Tokyo khoảng 310.000 Yên/tấn (2.672 USD/tấn) và CRS loại 430 có giá 250.000 Yên/tấn (2.155 USD/tấn). Giá thị trường cho thép tấm loại 304 tại Tokyo là 510.000 Yên/tấn (4.397 USD/tấn), tất cả đều không đổi so với 1 tháng trước.
Đại diện NSSC không bình luận gì nhưng công ty lý giải rằng giá niken bình quân trong 2 tháng cuối năm đã tăng 0,17 USD/lb từ 5,03 USD/lb của hai tháng trước đó, trong khi tỷ giá giảm 6,08 Yên xuống còn 113,05 Yên đổi 1 USD. Đồng Yên mất giá buộc công ty phải tăng thêm 5.000 Yên/tấn theo công thức phụ phí hợp kim.
Giá ferrochrome trung bình trong tháng 11 và 12 vừa qua vẫn giữ nguyên 1,18 USD/lb, nhưng vì giá trong 3 tháng đầu năm nay sẽ tăng thêm 0,55 USD/lb nên công ty khuyến cáo giá hợp kim sau tháng 2 sẽ được tăng thêm nữa.
JFE Steel cũng xác nhận hôm thứ Tư rằng sẽ nâng giá CRC không gỉ ferritic từ hợp đồng tháng 1 lên thêm tới 35.000 Yên/tấn đối với các khách hàng giao ngay và hợp đồng dài hạn. “Mức tăng trong chi phí nguyên liệu như than đá và ferrochrome là lớn. Chúng tôi thực sự cần phải nâng giá của mình sớm hơn”, phát ngôn viên JFE cho hay. Tổng mức tăng của JFE cho CRC ferritic kể từ tháng 6 cho tới nay đã lên đến 60.000 Yên/tấn.
Một nhà phân phối thép không gỉ ở Tokyo nhận xét rằng mức tăng của JFE dường như lớn hơn so với NSSC nhưng đây chỉ là do khoảng thời gian tính toán khác nhau và tổng mức tăng của cả hai doanh nghiệp sẽ tương tự. “Nhu cầu CRC không gỉ đã tăng và các khách hàng sẽ phải chấp nhận mức tăng này nếu như họ muốn nhận được nguồn cung ổn định từ hai nhà máy”.

Shagang duy trì giá thép cây cho giữa tháng 1

Jiangsu Shagang Group, nhà máy sản xuất thép tư nhân lớn nhất Trung Quốc, sẽ duy trì giá niêm yết trong nước cho thép cây trong 10 ngày giữa tháng 1. Đây là lần không thay đổi giá thứ hai liên tiếp của nhà máy này.
Theo đó, thép cây HRB400 đường kính 16-25mm của nhà máy này vẫn ở mức 3.550 NDT/tấn (513 USD/tấn), gồm 17% VAT, cao hơn khoảng 87% so với thời gian này năm ngoái.
Ngoài ra, nhà máy đã quyết định sẽ bù cho các đại lý của mình thêm 250 NDT/tấn (36 USD/tấn) cho những đơn hàng nhận đặt trước hồi đầu tháng 1.
Tuy nhiên, Shagang đã giảm giá cuộn trơn HPB300 6.5mm xuống 200 NDT/tấn còn 3.430 NDT/tấn gồm VAT trong cùng thời gian này. Giá mới của Shagang là phù hợp với thái độ thận trọng đối với thị trường sắp tới Tết Nguyên đán, vì nhu cầu khó mà cải thiện trước Tết.
Hôm thứ Tư, hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 5/2017 trên sàn Shanghai Futures Exchange tăng 15 NDT/tấn (0.5%) so với ngày trước đó lên 3.182 NDT/tấn. Hợp đồng này đã tăng tổng cộng 270 NDT/tấn kể từ thứ Hai.

Thép cây Châu Á không thay đổi do chào giá Trung Quốc ổn định

Giá thép cây giao ngay nhập khẩu tới Châu Á đã chững lại trong ngày thứ Tư, sau khi tăng đáng kể vào ngày trước đó, do các nhà xuất khẩu Trung Quốc chọn cách giữ giá. Nhưng người mua ở nước ngoài vẫn còn thận trọng, do dự mặc dù chào giá Trung Quốc cao hơn. S&P Global Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm ở mức 426 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế, không đổi so với ngày trước đó.
Tại Hong Kong, chào giá cho thép cây Trung Quốc phổ biến là 440-450 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế, tương đương 431-441 USD/tấn FOB, phí vận chuyển 9 USD/tấn. Nhiều người cho biết các giao dịch có thể được chốt với giá 435 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế (426 USD/tấn FOB).
Một thương nhân ở Singapore cho biết các thương nhân Trung Quốc đã duy trì chào giá 430 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, tương đương 428 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, phí vận chuyển 15 USD/tấn và dung sai khối lượng 3%. Trong khi đó, hầu hết các nhà máy đều giữ chào giá khoảng 435-440 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết (433-438 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế).
Giá mua lý tưởng ở Singapore vẫn còn khoảng 420-425 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết (418-423 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế) bởi vì khoảng cách giữa giá bán thấp hơn tại thị trường trong nước của họ với chào giá cao hơn từ Trung Quốc.
Một nhà máy xuất khẩu lớn ở miền đông, trước đây đã giữ chào giá 425-430 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết (438-443 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, dung sai khối lượng 3%), nhưng cũng đã hạ chào giá xuống 420 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết (433 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế) để có được đơn hàng trước Tết Nguyên đán.

Giá cuộn trơn Châu Á tăng với giá Trung Quốc cao hơn

Giá giao ngay cho cuộn trơn nhập khẩu tới Châu Á tăng từ ngày 5-11/1, lần tăng đầu tiên sau khi giảm trong 3 tuần liên tiếp. Tất cả các nhà máy Trung Quốc đều đã nâng chào giá xuất khẩu cho phù hợp với thị trường trong nước đang đi lên mặc dù người mua ở nước ngoài vẫn chưa chấp nhận mức giá cao hơn. Đà tăng suốt tuần dẫn tới Platts định giá thép dây dạng lưới 6.5mm ở mức 425-430 USD/tấn FOB, tăng 10,5 USD/tấn so với tuần trước đó.
Hôm thứ Tư, một nhà máy lớn ở miền bắc đã chào giá 445 USD/tấn FOB, tăng 5 USD/tấn so với thứ Ba. Nhà máy này đã nhận trước khoảng 20.000 tấn thép dây hôm thứ Ba với các nhà xuất khẩu Trung Quốc với giá 440 USD/tấn FOB và vì vậy không vội để bán thêm hàng.
Quả thực, việc nhận trước đơn đặt hàng rất sôi động trong ngày thứ Ba sau khi thị trường thép trong nước chứng kiến sự gia tăng trong hoạt động giao kỳ hạn từ nỗ lực lâu dài của chính phủ nhằm giải quyết tình trạng thừa cung. Một số thương nhân cho biết họ dự báo giá sẽ tăng sau Tết Nguyên đán.
Chào giá phổ biến từ các nhà máy hôm thứ Tư là 440 cho thép dây hàm lượng cacbon thấp SAE1008 6.5mm. Mức giá này được so với chào giá thấp 425 USD/tấn FOB hồi tuần trước trong bối cảnh thị trường trong nước trì trệ.
Trong khi đó, một nhà máy hàng đầu ở miền đông đang chào giá 440 USD/tấn FOB hôm thứ Tư, so với chào giá cao trước đó 465 USD/tấn. Nhưng các thương nhân phần lớn đã ngưng chào giá vào cùng ngày, do chênh lệch lớn giữa giá bán trong nước với giá mong muốn của người mua ở nước ngoài.
Jiujiang Wire Co nằm ở tỉnh Hà Bắc, đã quan sát kỹ cho giá niêm yết trong nước của mình, đã giảm 20 NDT/tấn (2,9 USD/tấn) xuống 2.960 NDT/tấn xuất xưởng gồm VAT hôm 9/1. Nhiều người suy đoán giá mới sẽ tăng vào ngày 12/1, do thị trường trong nước nhảy vọt.
Hôm 11/1, giá giao ngay tại Thượng Hải cho cuộn trơn Q195 6.5mm tăng 110 NDT/tấn so với tuần trước đó lên 3.180-3.220 NDT/tấn xuất xưởng gồm VAT.

HRC Châu Á tăng do chào giá cao hơn

Giá HRC giao ngay nhập khẩu tới Châu Á tăng trong ngày thứ Tư sau khi duy trì ổn định suốt 3 ngày làm việc liên tiếp vì hầu hết các nhà xuất khẩu đã nâng chào giá do giá tại Trung Quốc lên cao. Platts định giá HRC SS400 3.0mm ở mức 495-500 USD/tấn FOB Trung Quốc, tăng 5 USD/tấn so với ngày trước đó.
Tại thị trường Thượng Hải, Q235 5.5mm HRC được định giá 3.780-3.790 NDT/tấn (546-547 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT, thấp hơn ngày trước đó 15 NDT/tấn.
Một nhà máy ở miền đông đã nâng chào giá thêm 10 USD/tấn lên 505 USD/tấn FOB Trung Quốc cho SS400 HRC. Các nhà máy khác đã quay trở lại thị trường với chào giá 510-520 USD/tấn FOB Trung Quốc cho thép cuộn cùng loại sau khi họ đã ngưng chào giá hôm thứ Ba khi giá trong nước tăng vọt.
Một nhà máy lớn ở đông bắc đang cân nhắc nâng chào giá lên thêm 5-10 USD/tấn sau khi bán 30.000 tấn HRC với giá cơ bản 500 USD/tấn FOB Trung Quốc hôm thứ Ba. Tuy nhiên, “giá hỏi mua ở đây vẫn còn rất hiếm vì sắp tới Tết và người mua không chắc liệu xu hướng tăng có kéo dài qua vài ngày tới hay không”.
Một thương nhân lớn ở miền đông cũng cùng chung quan điểm, giải thích rằng ông đã nhận được giá hỏi mua chỉ có 500 USD/tấn CFR Việt Nam cho thép cuộn SAE hôm thứ Tư. SAE1006 2.0mm chênh lệch 15 USD/tấn so với SS400 HRC.
Các khách hàng của một thương nhân Hàn Quốc chỉ muốn mua SS400 HRC với giá 490 USD/tấn FOB Trung Quốc mặc dù chào giá Trung Quốc đã tăng. Cả bà và thương nhân người Việt nói trên đều tin là khối lượng giao dịch sẽ cải thiện chỉ sau Tết.
Đối với thép cuộn SAE, chào giá Ấn Độ vẫn duy trì mức 510-512 USD/tấn CFR Việt Nam, dẫn đến chào giá mua chỉ có 505 USD/tấn CFR Việt Nam.

Baowu nâng giá thép dẹt tháng 2, Angang không thay đổi giá

Hai nhà máy lớn của Trung Quốc là Baoshan Iron & Steel và Wuhan Iron & Steel cho biết hôm thứ Tư rằng họ sẽ nâng giá bán trong nước tháng 2 cho hầu hết các sản phẩm thép dẹt được bán ra tại xưởng. Trong khi nhà máy Anshan Iron & Steel ở đông bắc thì vẫn giữ nguyên giá cho hầu hết các loại thép không đổi.
Cụ thể, Baosteel sẽ tăng giá HRC thêm 120 NDT/tấn (17 USD/tấn), 150-200 NDT/tấn cho CRC và 150-280 NDT/tấn cho HDG. Giá thép tấm vẫn duy trì từ mức của tháng 1.
Wisco sẽ duy trì giá thép tấm và HRC không đổi cho tháng 2, nhưng tăng 100-150 NDT/tấn cho CRC và 150 NDT/tấn cho HDG. Đại diện nhà máy Wisco xác nhận giá xuất xưởng tháng 2 cho Q235 5.5mm HRC sẽ duy trì 4.180 NDT/tấn, không bao gồm 17% VAT.
“Chúng tôi đã xem xét thông tin thị trường kỳ hạn trong việc thiết lập mức chào giá của mình và, sau khi sáp nhập với Baosteel, cũng tham khảo chào giá của họ”, đại diện Wisco cho biết. Hai công ty này đã hợp tác với nhau thành China Baowu Steel Group vào cuối năm 2016, mặc dù chào giá trong nước tạm thời đã được thông báo một cách độc lập.
Angang giữ giá tháng 2 không đổi cho HRC, hầu hết các loại CRC, HDG và thép tấm, nhưng tăng giá CRC sản xuất ô tô lên 100 NDT/tấn.

Thị trường HRC Ấn Độ ổn định khi người mua quay lưng với giá tăng

Giá HRC Ấn Độ vẫn duy trì ổn định trong tuần này, khi người mua tiếp tục phản đối mức tăng gần đây. Giá xuất xưởng Mumbai cho HRC IS 2062 dày từ 3mm trở lên phổ biến ở mức 39.500-40.500 Rupees/tấn (578-593 USD/tấn) gồm phí vận chuyển, tương đương 46.601-47.781 Rupees/tấn, gồm VAT 5% và thuế tiêu thụ 12.5%.
Mặc dù nhu cầu suy yếu nhưng vào đầu tháng này các nhà máy Ấn Độ đã quyết định nâng giá bán trong nước thêm 3.000 Rupees/tấn.
Nhu cầu vẫn còn suy yếu khi nền kinh tế nước này tiếp tục vật lộn những dư chấn từ động thái đổi tiền của chính phủ. Trong số vài biện pháp được thông báo đột ngột hồi cuối tháng 11, New Delhi quy định việc rút tiền từ các máy ATM bị hạn chế xuống còn 2.000 Rupees/ngày, sự siết chặt lên năng lực chi tiêu đã khiến cho người tiêu dùng trì hoãn việc mua hàng.
Việc rút tiền mặt thanh khoản khỏi hệ thống lưu thông cũng đã dẫn tới doanh số ít hơn cho các mặt hàng như xe hơi và hàng tiêu dùng từ đó làm ảnh hưởng tới nhu cầu HRC. “Không thể biến Ấn Độ thành một nền kinh tế không dùng tiền mặt chỉ qua một đêm”, đại diện một nhà máy ở Delhi cho biết, ông nhấn mạnh rằng Ấn Độ vẫn là một nền kinh tế dùng tiền mặt là chủ yếu.
Trong khi đó, người mua thép vẫn than phiền về việc giá HRC tăng mạnh. “3.000 Rupees/tấn là mức tăng quá lớn”, một nhà sản xuất phụ tùng xe ô tô nói. Ông cho biết mình sẽ đợi các nhà máy hạ bớt mức tăng trước khi chốt hợp đồng mua thép sắp tới.
Các nhà phân tích dự báo việc đổi tiền sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến việc kinh doanh trong nhiều tháng tới. “Việc hủy bỏ hai loại tiền mặt có mệnh giá lớn đã dẫn tới sự gián đoạn ngắn hạn trong nền kinh tế Ấn Độ”, một báo cáo gần đây của các nhà phân tích Mumbai thuộc Fitch Ratings cho biết. Báo cáo này khuyến cáo tác động lên nền kinh tế sẽ làm tăng sự gián đoạn lâu hơn. Fitch đã điều chỉnh giảm dự báo GDP Ấn Độ cho năm tài khóa 2016 (kết thúc vào tháng 3) xuống 6.9% từ 7.4%.

 Giá HDG xuất khẩu của Trung Quốc phục hồi do giá giao sau cao hơn

Giá xuất khẩu cho HDG của Trung Quốc phục hồi trong ngày thứ Tư do giá thép giao sau tăng ở ngày trước đó.
Hôm 11/1, chào giá cho DX51D HDG phủ 120 grams kẽm trên một mét vuông với vảy kim loại từ một nhà máy lớn ở miền bắc Trung Quốc đã tăng lên 600 USD/tấn FOB từ 590 USD/tấn FOB.
Một số nhà xuất khẩu cho biết các giao dịch đã được chốt với giá 590 USD/tấn FOB vào đầu tuần này, nhưng công ty không muốn đưa ra mức giá này nữa. Chào giá từ nhà máy này đã từng ở mức cao 615 USD/tấn FOB vào cuối tháng 12.
Một nhà máy lớn khác nằm ở đông bắc chào bán HDG cùng loại phủ 180 gram kẽm trên một mét vuông với giá 610 USD/tấn FOB, giảm từ 630 USD/tấn FOB của cuối tháng 12. Một thương nhân ở miền đông miêu tả mức giá 610 là có thể giao dịch, các đơn hàng nhận được tại nhà máy này đã rất tốt trong tuần này vì vậy nhà máy dự định sẽ tăng chào giá lên cao hơn trong tuần tới. Ông đã mua một số HDG phủ 180 gram kẽm trên một mét vuông không có vảy kim loại từ nhà máy này với giá 600 USD/tấn FOB vào đầu tuần này.
Các thương nhân mà Platts liên hệ cho biết thị trường HDG của Trung Quốc vẫn còn tốt vì vậy họ không tin có nhiều khả năng để giá xuất khẩu HDG rớt, ít nhất là vào lúc này. Một thương nhân khác ở miền đông cho biết không có nhiều nhà máy thép đang chào giá HDG nhưng họ sẽ làm như vậy, giá của họ chắc chắn sẽ rất cao để phản ánh mức giá trong nước.