Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Tuần 43/2021: Dự báo xu hướng thép TG

  

THÉP DÀI

_Thêm nhiều nhà máy thép dài EU tăng giá trong bối cảnh chi phí năng lượng cao hơn như Celsa và một số nhà máy Ý thông báo tăng giá 80 Euro/tấn. Trong khi đó, nhiều nhà sản xuất lò điện hồ quang ở Nam Âu đã thảo luận về việc tăng lên 35-40 Euro/tấn.

Chi phí sản xuất EAF thực tế đã tăng 120-130 Euro/tấn do chi phí năng lượng tăng, nhưng do điều kiện thị trường yếu, các nhà máy không thể tăng giá nhiều. Các nhà máy lò cao và một số nhà máy lại ở Nam Âu sẽ được hưởng lợi từ việc tiêu thụ năng lượng thấp hơn.

Nhiều nhà sản xuất vẫn đang kìm hãm việc chào bán, dành thời gian để điều chỉnh theo các điều kiện thị trường mới. Các nhà sản xuất Ý Beltrame đã tích trữ dư thừa và quyết định tạm ngừng hoạt động thay vì sản xuất với giá thấp hơn do chi phí sản xuất tăng lên. Nhưng xu hướng giá đảo ngược có thể sẽ khuyến khích các nhà máy quay trở lại thị trường sớm.

Tuy nhiên, tin tức về việc giá tăng ngay lập tức đã thúc đẩy hoạt động mua, với các nhà sản xuất báo cáo lượng đơn đặt hàng tăng vọt.

Dự kiến với các chi phí năng lượng tăng, phế liệu tăng giá do thu gom gặp khó khăn hơn sẽ khuyến khích nhu cầu trở lại, giúp các nhà máy tăng giá thêm 30-50 Euro/tấn trong tháng tới.

_ Nhu cầu thép cây nội địa của Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục do đồng lira yếu đi đáng kể so với đô la Mỹ và mức lãi suất thấp hơn được công bố vào ngày 21/10. Tiêu thụ thép cây trên toàn cầu, ngoài Trung Quốc, quá mạnh nên không bị ảnh hưởng bởi giá thép Trung Quốc giảm vào ngày 21-22/10.

Tuy nhiên, bất kỳ sự sụt giảm mạnh nào nữa của giá thép Trung Quốc trong những tuần tiếp theo sẽ ảnh hưởng đến thị trường thép cây toàn cầu, đặc biệt là vào cuối năm nay, một khi việc dự trữ tại các thị trường này kết thúc. Hiện vẫn chưa rõ liệu đợt tái cung ứng toàn cầu và Thổ Nhĩ Kỳ sẽ kết thúc vào tháng 11 hay tháng 12.

Hai nhà máy ở Istanbul đã bán thép cây tại địa phương vào ngày 22/10 với giá 750 USD/tấn xuất xưởng, chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng.

Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã có cơ hội bán hàng tại thị trường nội địa, Trung Đông, Châu Âu, Châu Phi và Châu Mỹ, điều này bù đắp cho sự cạnh tranh ngày càng tăng ở Đông Nam Á. Nhưng sự biến động ở Trung Quốc vẫn tiếp tục. 

Nhu cầu thép cây nội địa của Thổ Nhĩ Kỳ dự kiến ​​vẫn mạnh khi đồng lira yếu hơn so với đô la Mỹ, việc tái cung cấp thép cây theo yêu cầu của các nhà dự trữ và lãi suất thấp hơn. Giá phế liệu dự kiến tiếp tục tăng với các nhà cung cấp nâng giá chào bán do thu gom khó khăn trong mùa đông. Do đó, giá xuất khẩu dự kiến tăng về 800 USD/tấn fob 2 tháng tới.

_ Thanh khoản vẫn ở mức thấp trên thị trường thép dài CIS, nhưng giá chào bán đã tăng lên trong tuần qua dựa vào thị trường Thổ Nhĩ Kỳ mạnh hơn và nguyên liệu hạn chế.

Chỉ có nguyên liệu Ukraine được chào bán vào khoảng giữa tháng ở mức 710 USD/tấn fob. Mức hiện tại có khả năng cao hơn do lượng đặt trước của Thổ Nhĩ Kỳ được báo cáo ở mức 730 USD/tấn fob vài ngày trước.

Giá nội địa của Nga đối với thép cây 12mm loại A500C đã tăng lên 73,000–75,600 Rub/tấn (1,027–1,064 USD/tấn) cpt Moscow, bao gồm thuế giá trị gia tăng 20%, tăng từ 62,900–66,000 Rub vào tuần trước.

Nguyên liệu của Nga vẫn đang thắt chặt trong nước, cộng với việc hủy bỏ khoản thuế 15% vào cuối năm khi thuế xuất khẩu sẽ được dỡ bỏ, giúp giá cả cạnh tranh hơn và thu hút người mua hơn. Giá Thổ Nhĩ Kỳ cũng đang tăng, điều này sẽ khuyến khích các nhà máy tiếp tục tăng giá 50-70 USD/tấn trong tháng 10-tháng 11.

THÉP DẸT

_  Các nhà sản xuất thép Bắc Âu đã chào bán lượng HRC dư thừa từ ngành ô tô sang thị trường Thổ Nhĩ Kỳ và các thị trường khác, để giảm tải áp lực thị trường giao ngay.

Nhu cầu nội địa thấp, đặc biệt là ở miền Bắc, do các trung tâm dịch vụ có đủ hàng dự trữ và doanh số bán hàng thấp hơn. Lượng hàng đến từ các nhà sản xuất trong nước tăng lên, trong khi hàng nhập khẩu cũng đang thông quan. Các nhà máy đang cố gắng buộc người mua phải trả giá theo thỏa thuận cho nguyên liệu đã đặt hàng tháng trước, trong khi người mua vẫn đang cố gắng hủy bỏ hoặc thương lượng lại.

Trong khi chi phí năng lượng tăng cao đã giúp giá cả ổn định hơn ở các thị trường như Thổ Nhĩ Kỳ và CIS, nhu cầu ô tô giảm là áp lực chính của thị trường thép cuộn Châu Âu hiện tại. Nhưng giá cả tăng cao ở những thị trường này có thể hỗ trợ giá Châu Âu.

Ở phía Bắc, các nhà máy lớn hơn vẫn đang cố gắng đề xuất giá khoảng 1,000-1,050 Euro/tấn, nhưng rất ít người mua đang trả mức giá như vậy - nguyên liệu đã có sẵn từ các nhà máy ở Trung và Đông Âu gần với mức 910-920 Euro/tấn được giao, và đây là nơi mà hầu hết thanh khoản đã có. HRC từ Châu Á được chào bán ở mức 850-860 USD/tấn cfr Ý, trong khi HRC của Thổ Nhĩ Kỳ được báo giá 900-950 USD/tấn fob.

Các nhà sản xuất ô tô sẽ còn giảm sản xuất vì tình trạng thiếu chất bán dẫn chưa thể cải thiện sớm. Và áp lực này sẽ đè lên thị trường HRC vì đó là nguồn tiêu thụ lớn. Tuy nhiên, mức giảm về cuối năm sẽ được hạn chế từ các chi phí đầu vào tăng và giá thế giới đang tăng trưởng. Giá HRC Bắc Âu dự kiến giảm về 900 Euro/tấn.

_  Giá HRC Mỹ giảm do chào hàng thấp hơn và doanh số bán đã đẩy giá xuống trong đợt giảm lớn nhất kể từ tháng 2. Thời gian sản xuất HRC tại Midwest giảm xuống còn 4-5 tuần từ 5-6 tuần.

Một nhà sản xuất thép đã bán HRC giao ngay với giá 1,940 USD/tấn, nhưng nhiều người giảm xuống 1,900 USD/tấn, với hai chào bán phía nam ở mức 1,880 USD/tấn.

Đây là đợt giảm giá thứ 3 trong vòng 5 tuần qua và nhiều người mua đã đứng ngoài lề khi kỳ vọng giá sẽ tiếp tục giảm, có khả năng giảm mạnh. Một trung tâm dịch vụ cho biết họ có cơ hội mua tối đa theo hợp đồng và đang giữ mức mua của họ ở mức hợp đồng tối thiểu.

Một số trung tâm dịch vụ bắt đầu hạn chế mua để giảm lượng hàng tồn kho và đạt chỉ tiêu cuối năm. Cùng với nhu cầu giảm và giá cả không chắc chắn, người tiêu dùng hiện nay ít có khả năng mua thêm thép hơn so với hầu hết năm 2021.

Giá HRC nhập khẩu vào Houston không đổi ở mức 1,500 USD/tấn ddp Houston. HRC có sẵn ở Houston với giá thấp hơn 100 USD/tấn của giá mà các nhà sản xuất trong nước đang cung cấp.

Hầu hết thị trường kỳ hạn HRC CME Midwest tương đối đi ngang trong tuần trước. Giá tháng 12 không đổi ở mức 1,635 USD/tấn, trong khi giá kỳ hạn tháng 1 tăng 6 USD/tấn lên 1,505 USD/tấn. Giá tháng 2 tăng 7 USD/tấn lên 1,380 USD/tấn, trong khi giá tháng 3 tăng 10 USD/tấn lên 1,285 USD/tấn. Giá tháng 4 là 1,260 USD/tấn.

Nhìn chung, giá HRC Mỹ chịu áp lực từ nhu cầu chậm, song giá vẫn đang neo đậu ở mức cao vì nguồn cung thép thấp và các chính sách bảo hộ cản trở hàng nhập khẩu. Lợi nhuận tốt sẽ cho phép các nhà máy giảm giá về cuối năm, khi áp lực nhập khẩu tăng, về 1,700-1,800 USD/tấn.

_ Các nhà sản xuất thép dẹt ở Thổ Nhĩ Kỳ gần như đã bán hết các lô hàng giao tháng 12, do hoạt động mua sôi động.

Ngân hàng trung ương của nước này đã hạ lãi suất vào ngày 21/10, khiến thị trường trong nước tạm dừng, do việc mua bán bằng đồng lira trở nên khó khăn hơn. Các nhà sản xuất ở Thổ Nhĩ Kỳ bán các sản phẩm thép dẹt bằng đô la, nhưng các trung tâm dịch vụ và kho dự trữ bán cho người dùng cuối bằng đồng lira, vì vậy nhu cầu ở hạ nguồn dự kiến ​​sẽ vẫn giảm do đồng lira yếu hơn so với đồng đô la.

Các nhà sản xuất vẫn đang có phong độ tốt, gần như đã lấp đầy các đơn đặt hàng cho đến cuối năm. Chỉ có một nhà máy được cho là có công suất trong tháng 12, chào tầm 920 USD/tấn xuất xưởng, nhưng có thể chốt mức này.

Chào bán tháng 1 đã được nghe ở mức 920-950 USD/tấn xuất xưởng.  Các nhà sản xuất CIS - những nhà nhập khẩu chính vào Thổ Nhĩ Kỳ - dường như đều đang tiến hành bảo trì vào tháng 11, điều này đã làm giảm công suất vận chuyển trong tháng 12 của họ, đẩy giá vượt mốc 900 USD/tấn cfr ở Thổ Nhĩ Kỳ.

Và mặc dù thị trường trong nước tăng trưởng mạnh, nhưng hoạt động kinh doanh xuất khẩu vẫn khó khăn do người mua Châu Âu không quan tâm đến việc mua hàng trong thời gian dài và ở mức giá tương đương với giá trị nhà máy trong nước. Giá thầu từ Nam Âu ở mức 820 Euro/tấn (953 USD/tấn cfr Thổ Nhĩ Kỳ), khác xa so với mục tiêu của các nhà sản xuất ở mức tối thiểu 850-860 Euro/tấn cfr. Lần bán hàng gần đây nhất, khoảng hai tuần trước, được thực hiện ở mức 800 Euro/tấn cfr.

Các chi phí gia tăng cộng với giá nội địa mạnh lên sẽ hỗ trợ thị trường HRC xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ, song khách hàng chính là Châu Âu dự kiến yếu về cuối năm. Do đó, giá xuất khẩu HRC Thổ Nhĩ Kỳ sẽ tăng chậm hơn trong nước, đạt khoảng 900-910 USD/tấn fob.

PHẾ LIỆU

_Giá nhập khẩu phế liệu của Thổ Nhĩ Kỳ tăng với đơn hàng phế Mỹ chốt ở mức 510 USD/tấn, cho phế HMS 1/2 80:20 và 530 USD/tấn cfr đối với loại vụn.Các giao dịch khác chốt ở mức tương đương 510 USD/tấn cfr Thổ Nhĩ Kỳ đối với HMS 1/2 80:20 cao cấp.

Nhu cầu phế liệu toàn cầu là cực kỳ mạnh mẽ, đặc biệt là ở Châu Á, nơi mà nhu cầu mạnh mẽ đang thúc đẩy các nhà cung cấp biển sâu theo đuổi thị trường này.

_ Giá nhập khẩu phế liệu sắt đóng container của Đài Loan tiếp tục tăng vào ngày 21/10 khi người mua tăng giá dự thầu.

Không có giao dịch giao ngay được ghi nhận trong ngày thứ sáu, nhưng những người mua đang tìm kiếm hàng hóa đã tăng giá thầu để lôi kéo các nhà cung cấp cắt giảm giá chào hàng. Giá cao nhất là 485 USD/tấn. Người bán duy trì mức chào hàng của họ trong khoảng 490-495 USD/tấn cfr, không thay đổi so với ngày thứ năm.

_ Tokyo Steel đã tăng giá thu mua một lần nữa tại nhà máy Tahara lên 500 yên/tấn, đánh dấu lần điều chỉnh thứ bảy trong tháng 10 cho đến nay, 4 trong số đó được thực hiện trong tuần qua. Những người mua ở nước ngoài đang tránh xa phế liệu Nhật Bản do giá cao ngất ngưởng vẫn trên 540 USD/tấn đối với H2.

“Tôi nghĩ các nhà máy Việt Nam không chắc liệu người mua Trung Quốc có thể hấp thụ giá phôi hay không, vì vậy họ không chấp nhận rủi ro này và mua phế liệu ở mức cao như hiện nay”, một thương nhân nói.

Nhìn chung, giá phế đang nhận được động lực tăng trưởng từ nhu cầu sản xuất phôi thép và thép mạnh tại Châu Á, các chi phí hậu cần, vận chuyển cũng gia tăng. Việc gần bước vào mùa đông khiến việc thu gom phế liệu khó khăn hơn cũng đẩy giá phế tăng. Do đó, dự kiến phế tiếp tục tăng khoảng 20-30 USD/tấn tới tháng 11.

SẢN LƯỢNG THÉP THÔ

Hiệp hội Thép Thế giới thông báo rằng sản lượng thép thô toàn cầu của 64 quốc gia báo cáo với Worldsteel là 156.8 triệu tấn vào tháng 8/2021, giảm 1.4% so với cùng kỳ năm ngoái.

Sản lượng thép thô toàn cầu 8 tháng đầu năm tăng 10.6% so với cùng kỳ năm ngoái lên 1,321.9 triệu tấn.

Trong 10 nước sản xuất hàng đầu thế giới, sản lượng của 4 nước đứng đầu như sau:

_Trung Quốc sản xuất 83.2 triệu tấn, giảm 13.2% so với cùng kỳ năm ngoái trong tháng 8. Sản lượng 8 tháng là 733 triệu tấn, tăng 5.3% so với cùng kỳ năm ngoái.

_ Ấn Độ sản xuất 9.9 triệu tấn, tăng 8.2% so với cùng kỳ năm ngoái trong tháng 8. Sản lượng 8 tháng là 77.7 triệu tấn, tăng 25.6% so với cùng kỳ năm ngoái.

_ Nhật Bản sản xuất 7.9 triệu tấn, tăng 22.9% so với cùng kỳ năm ngoái trong tháng 8. Sản lượng 8 tháng là 64 triệu tấn, tăng 17% so với cùng kỳ năm ngoái.

_ Mỹ sản xuất 7.5 triệu tấn, tăng 26.82% so với cùng kỳ năm ngoái trong tháng 8. Sản lượng 8 tháng là 57.1 triệu tấn, tăng 19.5% so với cùng kỳ năm ngoái. Lý do sản lượng thép thô toàn cầu giảm chủ yếu là do nguồn cung thép từ Trung Quốc giảm do các hạn chế sản xuất nghiêm ngặt. Dự kiến sản lượng tháng 9 sẽ tiếp tục giảm về dưới 150 triệu tấn do Trung Quốc áp đặt lệnh hạn chế sản xuất nghiêm ngặt hơn trong tháng 9.

Thép dài còn gọi là thép xây dựng (sử dụng trong ngành xây dựng) như thép hình, thép thanh và thép cây.

Thép dẹt được sử dụng trong ngành công nghiệp nặng như đóng tàu, sản xuất ô tô, sản xuất các máy móc thiết bị công nghiệp, bao gồm các loại thép tấm, lá, cán nóng và cán nguội.

Lưu ý:  Dự báo trên chỉ mang tính tham khảo. Quý khách hàng nên tham khảo thêm nhiều nguồn tin khi quyết định mua bán.