Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Tuần 42/2021: Dự báo xu hướng thép TQ

Giá thép giảm mạnh tuần này trước các thông báo của Chính phủ về việc sẽ hành động để hạ nhiệt giá hàng hóa sau khi giá cả tăng vọt thời gian gần đây, cộng với tâm lý thị trường áp lực trước các chỉ số kinh tế giảm. Tuy nhiên, sản lượng thép vẫn đang giảm và sẽ càng thắt chặt về cuối năm, ngăn giá giảm sâu.

DIỄN BIẾN THỊ TRƯỜNG THÉP DÀI

Theo dữ liệu của Cục thống kê quốc gia, đầu tư vào bất động sản trong tháng 9 của Trung Quốc đã giảm 3.5% so với năm ngoái, mức giảm đầu tiên kể từ khi đóng cửa nghiêm ngặt do đại dịch covid đầu năm 2020. Trong khi đó, giá nguyên liệu đầu vào giảm sau khi cơ quan hoạch định kinh tế chính của Trung Quốc có động thái điều chỉnh giá than đang tăng vọt. Cơ quan quản lý chứng khoán hàng đầu của Trung Quốc CSRC cho biết, họ sẽ đàn áp "để hạn chế đầu cơ quá mức" trên thị trường kỳ hạn, gây ra đợt bán tháo trên thị trường.

Tồn kho thép cây của các thương nhân và nhà sản xuất tuần này giảm chậm, chỉ  200,000 tấn so với mức giảm 700,000 tấn của tuần trước.

Giá thép cây HRB400 giao ngay biến động trong tuần và giảm mạnh về cuối tuần, với giá giao ngay tại Thượng Hải giảm 350 NDT/tấn so với tuần trước, xuống 5,550 NDT/tấn xuất xưởng có thuế. Giá thép cây giao sau tháng 1 giảm 2 ngày liên tục ở mức kịch khung giới hạn hàng ngày xuống còn 4,976 NDT/tấn, giảm 774 NDT/tấn so với tuần trước.

Thị trường cũng đón nhận làn sóng cắt giảm mới, và dự kiến còn thắt chặt hơn nữa về cuối năm.

Một số nhà máy ở tỉnh Giang Tô phía đông Trung Quốc đã nhận yêu cầu cắt giảm sản lượng từ ngày 19, trong khi một nhà máy tỉnh Quảng Đông sẽ đình chỉ hoạt động của một lò cao trong 140 ngày. Một nhà máy ở tỉnh Hà Bắc, miền bắc Trung Quốc đã bắt đầu bảo trì lò cao trong 5 tháng kể từ ngày 19.

Các nhà máy cán độc lập ở quận Fengrun của Đường Sơn cũng nhận yêu cầu ngừng sản xuất từ ​​ngày 21-31/10, và các cảng Jingtang và Caofeidian được lệnh ngừng hoạt động vào ban đêm vào ngày 19/10.

Mặc dù giá giao ngay giảm mạnh, song  các nhà máy hàng đầu vẫn giữ nguyên giá ở mức 890-905 USD/tấn fob trọng lượng lý thuyết cho lô hàng tháng 12 trong bối cảnh nguồn cung xuất khẩu hạn chế.

"Nguồn cung thép cây và thép cuộn của chúng tôi vẫn còn hạn chế do hạn chế sản xuất và thiếu điện", một quan chức của nhà máy ở phía đông Trung Quốc cho biết, đồng thời cho biết thêm rằng họ sẽ chỉ giảm giá sau khi các hạn chế được dỡ bỏ.

Chào hàng thép dây từ các nhà máy Trung Quốc ổn định ở mức 905 USD/tấn fob.

Khoảng cách về giá giữa Trung Quốc và các nhà cung cấp lớn khác đã được thu hẹp, khiến một số thương nhân cân nhắc lựa chọn kinh doanh xuất khẩu thép cuộn. Nhưng giá thép cuộn của Trung Quốc vẫn cao hơn giá của các nước xuất khẩu lớn ít nhất 50 USD/tấn.

"Các chính sách xuất khẩu cho năm 2022 vẫn chưa chắc chắn và chúng tôi không chắc liệu thị trường xuất khẩu có chuyển biến tốt hơn hay không", một nhà máy ở miền Bắc Trung Quốc cho biết. Các nhà máy có thể bắt đầu cung cấp các lô hàng tháng 1/2022 vào tháng tới.

DIỄN BIẾN THỊ TRƯỜNG THÉP DẸT

Thị trường HRC cũng nối tiếp đà giảm từ tuần trước, nhưng giá cả giảm chậm hơn thép cây nhờ các cắt giảm sản xuất thu đông tập trung vào mặt hàng này. Tỉnh Sơn Tây của Trung Quốc đã công bố phiên bản cuối cùng của kế hoạch hạn chế sản xuất địa phương từ ngày 21/10/2021 đến ngày 31/3/2022, yêu cầu các nhà máy địa phương cắt giảm sản lượng 20-60% dựa trên xếp hạng.

Giá HRC giao ngay tại Thượng Hải giảm 170 NDT/tấn so với tuần trước xuống 5,600 NDT/tấn xuất xưởng. HRC kỳ hạn tháng 1 giảm xuống còn 5,268 NDT/tấn. Tâm lý thị trường bị ảnh hưởng bởi việc NDRC đàn áp giá than nhiệt kỷ lục do chi phí nguyên liệu đầu vào yếu hơn đã kéo giá thép xuống.

Giao dịch trầm lắng do người mua lo ngại rằng giá sẽ giảm sâu hơn trong bối cảnh các chính sách không chắc chắn. Tồn kho HRC của các thương nhân và nhà sản xuất đã giảm 100,000 tấn trong tuần này so với mức giảm 150,000 tấn của tuần trước.

Vài nhà máy tăng nhẹ giá đầu tuần dựa vào thị trường nội địa mạnh, song phần lớn giữ giá bình ổn hoặc ngưng chào bán do nhu cầu đường biển yếu và giá cả không cạnh tranh. Một nhà máy ở phía bắc Trung Quốc đã chào giá 920 USD/tấn fob Trung Quốc cho SS400 và sẵn sàng nhận đơn đặt hàng với giá 910 USD/tấn fob Trung Quốc. Tuy nhiên, hầu như không nhận được hồ sơ dự thầu hoặc yêu cầu nào từ các nhà máy và công ty thương mại lớn của Trung Quốc.

Người mua đường biển ở Hàn Quốc và Việt Nam không vội đặt hàng vì họ có đủ hàng tồn kho để hoạt động bình thường. Họ có thể chấp nhận mức giá cạnh tranh để vận chuyển hàng hóa nhanh chóng nếu họ có nhu cầu, nếu không, họ muốn đợi lâu hơn sau khi thấy giá giảm.

Nhu cầu về tấm tương đối tốt hơn. Một nhà máy ở phía bắc Trung Quốc đã bán hết toàn bộ phân bổ cho thép tấm SS400 với giá khoảng 953 USD/tấn cfr Việt Nam, tầm 923 USD/tấn fob Trung Quốc. Các giao dịch cho tổng cộng 20,000 tấn thép mạ kẽm nhúng nóng cho loại phủ 80g kẽm được bán ở mức 1,050 USD/tấn fob Trung Quốc hướng đến Nam Mỹ.

TRIỂN VỌNG GIÁ NGẮN HẠN

Giá thép Trung Quốc dự kiến sẽ tiếp tục biến động giữa các chính sách giảm sản xuất tăng cường cuối năm, sản lượng giảm do thiếu điện và nhu cầu tiêu thụ chậm trong mùa đông, sự can thiệp hạ nhiệt giá hàng hóa từ Chính phủ.

Yếu tố hỗ trợ gồm:

_Sản lượng thép giảm.

_ Giá thế giới ở mức cao.

_Chi phí than cốc cao kỷ lục, phế tăng giá về cuối năm.

_Chi phí điện cho sản xuất tăng, chi phí vận chuyển tăng.

Yếu tố trở ngại:

_ Chính phủ can thiệp ngăn giá không tăng quá cao, tránh lạm phát.

_Cắt giảm sản lượng kéo giá quặng giảm.

_Đầu tư bất động sản giảm, giảm nợ làm giảm tiêu thụ thép cây.

_Dịch bệnh, thiếu điện, cắt giảm sản lượng ngành ô tô làm giảm tiêu thụ thép dẹt.

Do đó, dự kiến giá trong nước tăng giảm đan xen, với HRC phục hồi vị trí cao hơn so với thép cây nhờ các cắt giảm thu đông tập trung vào mặt hàng này. Giá dao động trong khoảng 5,500-6,000 NDT/tấn.

Trên thị trường xuất khẩu, nhờ phân bổ xuất khẩu hạn chế, các chi phí hậu cần tăng nên giá vẫn duy trì mức cao, hoạt động tầm 960-980 USD/tấn cfr Việt Nam cho HRC SAE1006 về cuối năm.

SẢN LƯỢNG 

Dữ liệu chính thức của Cơ quan Thống kê Quốc gia Trung Quốc (NBS) cho thấy sản lượng thép thô của Trung Quốc trong tháng 9/2021 chỉ đạt 73.75 triệu tấn, sụt giảm mạnh 11.4% so với hồi tháng 8 trước đó và giảm tới 21.2% so với cùng kỳ năm ngoái.

Con số trên cũng là mức sản lượng thép thô thấp nhất kể từ hồi tháng 12/2018 đến nay. Sản lượng gang trong tháng 9/2021 của Trung Quốc cũng giảm mạnh 16.1% so với cùng kỳ năm 2020, xuống còn 65.19 triệu tấn. Tuy nhiên, dữ liệu cũng cho thấy tính chung 9 tháng đầu năm nay, sản lượng thép thô của Trung Quốc đã đạt 806 triệu tấn, tăng 2% so với cùng kỳ năm ngoái.

Hoạt động sản xuất thép của Trung Quốc trong thời gian qua đã chịu ảnh hưởng nghiêm trọng bởi tình trạng thiếu hụt nguồn cung điện diện rộng và các biện pháp cắt giảm lượng phát thải khí nhà kính. Công suất hoạt động của các nhà máy sản xuất thép sử dụng công nghệ lò hồ quang điện tại Trung Quốc trong tháng 9 vừa qua chỉ đạt 60%, thấp hơn nhiều so với mức 80% cùng kỳ năm ngoái.

Trong khi đó, công suất hoạt động của các nhà máy sử dụng công nghệ lò cao chỉ đạt 73%, thấp hơn mức 88% ghi nhận hồi tháng 9/2020.

Do sản lượng 9 tháng đầu năm đã tăng 2% so với cùng kỳ năm ngoái nên với mục tiêu giữ sản lượng không quá 1.065 tỷ tấn năm 2020, nước này sẽ mạnh tay cắt giảm hơn nữa về cuối năm. Sản xuất cũng bị ảnh hưởng do thiếu điện nên dự kiến về dưới mức 70 triệu tấn trong tháng 10.

QUẶNG SẮT

Giá biến động trong tuần song tăng cao hơn tuần trước, chịu ảnh hưởng từ giá thép, số liệu kinh tế yếu, các cắt giảm sản xuất gây áp lực trong khi được nâng đỡ bởi kỳ vọng của thị trường về việc một số hãng sản xuất thép tại Trung Quốc sẽ gia tăng công suất hoạt động trở lại sau một thời gian buộc phải cắt giảm sản xuất đáng kể trong tháng 9 vừa qua và nguồn cung quặng giảm.

Đồng thời, một số nhà đầu tư kỳ vọng tình trạng thiếu điện nghiêm trọng tại Trung Quốc hiện nay sẽ khiến các hãng sản xuất thép sử dụng công nghệ lò hồ quang điện với nguyên liệu đầu vào là thép phế liệu sẽ phải giảm đáng kể hoặc ngưng hoạt động. Như vậy các hãng sản xuất thép sử dụng công nghệ lò cao, luyện thép từ quặng sắt sẽ có cơ hội tăng sản lượng để lấp chỗ trống trên thị trường. Điều này được kỳ vọng sẽ thúc đẩy nhu cầu sử dụng quặng sắt trong thời gian tới.

Ông Vivek Dhar, chuyên gia phân tích thị trường hàng hoá thuộc tập đoàn ngân hàng Commonwealth Bank of Australia, nhận định “Các báo cáo gần nhất cho thấy sản lượng thép tại một số trung tâm sản xuất thép lớn của Trung Quốc như Đường Sơn, Giang Tô, Chiết Giang và An Huy đang tăng trở lại sau khi hoạt động sản xuất thép tại các khu vực này giảm mạnh trong tháng 9 vừa qua. Các nhà máy sản xuất thép vốn bị ảnh hưởng bởi các biện pháp siết chặt cắt giảm lượng phát thải khí nhà kính có thể tăng sản lượng trong tháng 11 tới đây lên cao hơn hoặc bằng mức sản lượng trong tháng 10 này.”

Các chuyến hàng quặng sắt khởi hành từ Australia và Brazil đạt 23.54 triệu tấn trong tuần kết thúc vào ngày 17/ 10, giảm 589,000 tấn so với tuần trước đó, dữ liệu từ Mysteel cho thấy.

BHP Group BHP.AX, công ty khai thác lớn nhất thế giới, đã công bố sản lượng quặng sắt quý đầu tiên giảm gần 5%. Tuần trước, Rio Tinto RIO.L đã hạ dự báo lô hàng quặng sắt năm 2021 do thị trường lao động thắt chặt.

Chỉ số quặng 62%fe giảm 8 USD/tấn so với đầu tuần lên 116.15 USD/tấn cfr Thanh Đảo ngày 21/10 song tăng gần 10 USD/tấn so với tuần trước.

Xét về triển vọng dài hạn tới cuối năm, giá giảm. Vì sao:

_ do sản xuất thép của Trung Quốc cắt giảm mạnh hơn nữa trong thời gian còn lại của năm, làm giảm nhu cầu quặng.

_thị trường bất động sản chậm lại trong Q4 do tín dụng thắt chặt vào lĩnh vực này để giảm nợ, nhất là với nguy cơ vỡ nợ của một trong những nhà phát triển bất động sản trung quốc evergande với khoảng nợ hơn 300 tỷ USD đã bắt đầu ảnh hưởng đến các nhà phát triển bất động sản lớn khác của Trung Quốc. Điều này làm giảm nhu cầu thép xây dựng, giảm quặng sắt.

_nguồn cung quặng dần tăng trở lại sau khi gián đoạn năm qua do thiên tai, tai nạn vỡ đập.

Giá cuối năm về tầm 100 USD/tấn.

Thép dài còn gọi là thép xây dựng (sử dụng trong ngành xây dựng) như thép hình, thép thanh và thép cây.

Thép dẹt được sử dụng trong ngành công nghiệp nặng như đóng tàu, sản xuất ô tô, sản xuất các máy móc thiết bị công nghiệp, bao gồm các loại thép tấm, lá, cán nóng và cán nguội.

Lưu ý:  Dự báo trên chỉ mang tính tham khảo. Quý khách hàng nên tham khảo thêm nhiều nguồn tin khi quyết định mua bán.